TÒA GIÁM MỤC QUI NHƠN
TÀI LIỆU HỌC HỎI
VỀ LỊCH SỬ GIÁO PHẬN QUI NHƠN
THỜI KỲ CÁC THỪA SAI DÒNG TÊN
LƯU HÀNH NỘI BỘ
BÀI 1: ĐOÀN THỪA SAI DÒNG TÊN ĐẦU TIÊN
ĐẾN ĐÀNG TRONG
1. Bối cảnh xã hội và công cuộc truyền giáo ở Việt Nam vào cuối
thế kỷ 16 – đầu thế kỷ 17.
Kể
từ năm 1600, nước Việt Nam
bị chúa Trịnh và Chúa Nguyễn phân chia, lấy sông Gianh làm giới tuyến. Từ Sông
Gianh ra Bắc được gọi là Đàng Ngoài thuộc quyền chúa Trịnh. Từ sông Gianh trở
vô Nam
được gọi là Đàng Trong thuộc quyền chúa Nguyễn. Vua Lê đóng đô tại Thăng Long
vẫn được Đàng Trong và Đàng Ngoài thần phục, nhìn nhận là vua của đất nước. Lúc
bấy giờ Phú Yên là biên giới phía Nam của Đàng Trong.
Từ đầu thế kỷ XVI,
tàu buôn người Bồ đã bắt đầu đi lại buôn bán với người Việt và cũng đã có thừa
sai Tây phương theo tàu buôn của họ vào Việt Nam . Tuy nhiên các thừa sai nầy chủ yếu làm tuyên úy cho các thương
nhân Bồ hơn là chủ ý truyền giáo cho dân Việt.
Từ năm 1615, công cuộc
truyền giáo tại Việt Nam
được các thừa sai Dòng Tên từ Áo Môn đến tổ chức đầy đủ và liên tục. Áo Môn hiện nay thuộc Trung Quốc. Lúc bấy giờ là
một khu cảng thương mại của người Bồ. Ngày
23.01.1576, Tòa Thánh thành lập giáo phận Áo Môn bao gồm Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên và Việt
Nam. Tại đây có trung tâm truyền giáo của các thừa sai Dòng Tên.
2. Các thừa sai Dòng Tên đầu tiên đến Đàng Trong
Ngày 18.1.1615, đoàn thừa sai Dòng Tên đầu tiên tới Cửa Hàn ( Đà
Nẵng), được chúa Nguyễn cho lập cư sở tại Hội An gồm có cha Francesco Buzomi
(Ý), cha Diego Carvalho (Bồ Đào Nha) và thầy Antonio Diaz (Bồ Đào Nha). Đây là mốc điểm lịch sử quan trọng trong công cuộc
rao giảng Tin Mừng cho Việt Nam. Biết được
công cuộc truyền giáo ở Đàng Trong đem lại nhiều kết quả và hứa hẹn, Bề trên
Dòng Tên tại Áo Môn phái thêm các thừa sai đến làm việc truyền giáo.
Vào tháng 7 năm 1618, với sự giúp đỡ nhiệt tình của ông Trần Đức Hòa,
Khám lý Tuần phủ Qui Nhơn, Cha Francesco Buzomi, Cha
Cristoforo Borri ( Ý ), Cha Francisco de Pina ( Bồ ), Tu huynh Antonio Dias, đã đến và thành lập trụ sở truyền giáo tại Nước
Mặn. Ngày nay thuộc thôn An Hòa, xã Phước Quang, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình
Định. Hiện nay, công trình kỷ niệm việc các thừa sai Dòng Tên
đầu tiên đến lập cơ sở truyền giáo tại Nước Mặn đã được Tòa Giám Mục Qui Nhơn
xây dựng và
hoàn thành vào ngày 05 tháng 8 năm 2011.
Năm 1623, Cha de Pina được phái đến hoạt động truyền giáo và lập
cư sở ở Thành Chiêm, Quảng Nam. Như thế, từ thời điểm năm 1623, các thừa sai Dòng Tên đã có
03 cư sở: Hội An, Nước Mặn và Thành Chiêm. Từ ba cư sở nầy, các
thừa sai Dòng Tên đã đặt được nền móng cho công cuộc truyền giáo tại Đàng
Trong.
Theo báo cáo thường
niên gởi về nhà Dòng năm 1625, các thừa sai tại Nước Mặn ban bí tích rửa tội
cho 602 người, tại Hội An 325 người; tại Thanh Chiêm 306 người. Tính từ năm
1615 đến ngày 06/02/1665, ngày chúa Hiền ra lệnh
trục xuất tất cả các thừa sai, tổng số thừa sai Dòng Tên đã đến làm
việc tại Đàng Trong là 38 người, thuộc 10 quốc tịch khác nhau.
Câu hỏi thảo luận bài 1:
1.
Bối cảnh xã hội của Việt Nam vào đầu
thế kỷ 17 như thế nào
2.
Trước khi các thừa sai Dòng Tên vào
truyền giáo ở Việt Nam, có đoàn truyền giáo nào đến trước không?
3.
Các thừa sai Dòng Tên đã lập những
cư sở nào để lập nền móng cho công cuộc truyền giáo ở Đàng Trong?
Bài 2: CÁC THỪA SAI DÒNG TÊN TIÊU
BIỂU
TRONG CÔNG CUỘC TRUYỀN GIÁO
TẠI ĐÀNG TRONG
Trong số những thừa sai Dòng Tên đã đến
làm việc tại Đàng Trong, có cha Buzomi và
cha Đắc Lộ là hai thừa sai mà tên tuổi sẽ không bao giờ phai mờ trong lịch sử
khai nguyên công giáo Việt Nam.
Cha Buzomi hoạt động truyền giáo tại Đàng Trong ngót
nghét 25 năm. Cha luôn bám sát giáo đoàn trừ
những khi lệnh trục xuất quá gắt gao không thể ẩn trốn nơi đâu, cha phải tránh
qua Chiêm Thành, Cao Miên hay về Áo môn. Nói về cha Buzomi, trong suốt thời gian hy sinh cho giáo
đoàn Đàng Trong, cha Đắc Lộ đã viết: “Thật là một người đạo đức thánh thiện, hy
sinh trong hoạt động, can đảm trong gian lao, cương quyết trong định đoạt. Cha
đã hoàn toàn hiến dâng hy sinh tất cả cho giáo đoàn xứ đó và cha đã thành công.
Bước vào Đàng Trong với một số vài người giáo dân, lúc về trời cha đã để lại
một con số ít nhất là 12 ngàn. Bao nhiêu giáo dân là bấy nhiêu triều thiên của
cha”. [1]
Tháng
12/1624, cha Đắc Lộ đến Đàng Trong. Cha ở Thành Chiêm học tiếng
Việt và những kinh nghiệm truyền giáo của cha de Pina. Công việc sửa soạn đã
tạm đủ. Tháng 7/1626 cha Đắc Lộ được bề trên ủy nhiệm cho sứ mệnh mở đầu công
cuộc truyền giáo ở Đàng Ngoài cùng với cha Pedro Marquez. Hai cha đến Cửa Bạng,
Thanh Hóa vào ngày lễ thánh Giuse 19/3/1627. Sau hai năm làm việc truyền giáo, gặt hái nhiều kết quả,
cuối tháng Ba năm 1629, hai cha bị trục xuất về Áo Môn.
Trong suốt 10 năm ở Áo Môn nhưng lòng cha Đắc Lộ vẫn ở
Việt Nam. Năm 1639, chúa Thượng Nguyễn Phước Lan trục xuất tất cả thừa sai khỏi
Đàng Trong. Cha Đắc Lộ được bề trên phái đến Đàng Trong. Trong hoàn cảnh rất
khó khăn từ năm 1640 đến năm 1645, cha Đắc Lộ phải sống chui, đi đi về về giữa
Áo Môn và Đàng Trong tới 04 lần. Trong thời sống chui đó, cha Đắc Lộ đã lén đi
thăm, an ủi giáo dân từ Cửa Hàn, Hội An, Hà Lam (Quảng Nam); Chợ Mới, Bàu Gốc,
Vom (Quảng Ngãi); Bến Đá, Gia Hựu (Bình Định); đến Dinh Trấn Biên ( Phú Yên).
Lễ Phục Sinh năm 1641, cha Đắc Lộ đến Phú Yên và ở đây
hơn hai tháng, thăm viếng tín hữu trong vùng, ban bí tích rửa tội cho 1.355
người. Trước khi rời Phú Yên, cha rửa tội cho 90 người tại nhà nguyện Dinh Trấn
Biên [2],
trong số đó có Anrê Phú Yên. Năm sau cha Đắc Lộ trở lại Phú Yên và nhận Anrê
Phú Yên vào đoàn thầy giảng do cha thành lập tại Hội An. Ngày 26
tháng 7 năm 1644, thầy Anrê Phú Yên chịu tử đạo. Hôm đó, ngày mồng 3 tháng 7/ 1645, cha từ giã
đất Việt thân yêu của cha. Cha ra đi mang theo lễ vật quý giá: thủ cấp thầy
giảng Anrê Phú Yên, vị tử đạo tiên khởi của Giáo hội Việt Nam .
Ngày 09/09/1659, Tòa Thánh đã
thành lập hai giáo phận đầu tiên tại Việt nam. Thành quả nầy phần lớn là nhờ công
khó cha Đắc Lộ đã vận động. Cha đã viết nhiều tác phẩm bằng chữ quốc ngữ có giá
trị về mặt tôn giáo cũng như mặt văn hóa và xã hội.
Câu
hỏi thảo luận:
1.
Kể tên hai thừa sai Dòng Tên
tiêu biểu trong giai đoạn đầu của công cuộc truyền giáo ở Đàng Trong?
2.
Kể lại vài dấu ấn của cha Đắc
Lộ trong công cuộc truyền giáo ở Việt Nam ?
ĐƯỢC BIẾT VÀ YÊU MẾN CHÚA GIÊSU
Theo
lời cha Đắc Lộ xác nhận: “Đúng 03 năm
trước khi chết, mẹ thầy dẫn thầy đến cho tôi, và tôi được hạnh phúc rửa tội cho
thầy” (Người Chứng Thứ Nhất, trang 202).
Nhờ
người mẹ đạo đức, Bà Gioanna, Anrê Phú Yên đã được biết và yêu mến Chúa Giêsu.
Nói được rằng Anrê Phú Yên đã lớn lên trong bầu sữa đức tin của người mẹ. Linh mục
Philipphê Bỉnh viết: “Bà rất chăm sóc
việc giáo dục cho Anrê về đường đức hạnh và đường học vấn”. (Truyện Đàng
Trão, trang 46).
Được
nhận tên Thánh Anrê khi chịu phép rửa tội, tên gọi dân sự của thầy cho đến nay
vẫn chưa tìm thấy bút tích nào để lại. Tên thánh rửa tội Anrê cùng với quê quán
là tên gọi của Anrê Phú Yên. Chúng ta cũng không biết rõ về gia thế, căn cứ vào
năm thầy tử đạo 1644, Cha Đắc Lộ xác nhận lúc ấy thầy 19 tuổi, chúng ta biết
được thầy đã chào đời năm 1625, là người con út trong gia đình. Có thể thầy đã
mồ côi cha trước khi chịu phép rửa tội, mẹ thầy là bà Gioanna, một người mẹ
công giáo đúng nghĩa, chẳng những nuôi con khôn lớn mà còn dạy cho con biết đức
tin, lối vào sự sống đời đời. Vùng đất thuộc Giáo Xứ Mằng Lăng ngày nay có dòng
sông Cái và ruộng đất màu mỡ là nơi gia đình Anrê sinh sống.
Gần
gũi với sông nước hữu tình, với thiên nhiên hiền hòa, với người mẹ đạo đức là
những yếu tố tự nhiên ảnh hưởng tâm hồn của Anrê, chuẩn bị cho Anrê đón nhận ơn
thánh của Bí tích Thánh Tẩy và lớn lên trong ơn thánh như Cha Đắc Lộ nói: “Thầy bản tính hiền lành, trong sạch, ngay
thật, rất có khả năng chịu mọi tác dụng của ơn thánh hóa. Mới chịu phép rửa tội
chưa bao lâu, thầy đã miệt mài trên đường nhân đức, và đã tiến bộ mau chóng,
đến nỗi chỉ trong thời gian ngắn đã đạt được trình độ mà người khác phải nhiều
năm mới đạt tới”.
Đầu
tháng 03 năm 1644, cả hai nhóm thầy giảng tập trung về Đà Nẵng, lúc bấy giờ Cha
Đắc Lộ cũng vừa mới từ Áo Môn trở về Đà Nẵng. Cha con gặp nhau hàn huyên tâm sự
và tạ ơn Thiên Chúa. Cuộc đời tận hiến và làm việc truyền giáo đã chiếm lĩnh
toàn bộ con tim, khối óc và sức lực của các thầy giảng, cách riêng Anrê Phú
Yên.
Được
biết Chúa Giêsu, yêu mến Chúa Giêsu và làm chứng cho Chúa Giêsu là hành trình
đức tin thánh Tông Đồ Anrê đã đi. Sau 17 thế kỷ, cũng từ miền sông nước, một
Anrê khác theo gương vị Bổn mạng của mình, đã từ bỏ Sõng lưới, từ bỏ ruộng
vườn, từ bỏ gia đình...để dành trọn vẹn tình yêu cho Chúa Giêsu. “Hãy giữ nghĩa cùng Chúa Giêsu cho đến hết
hơi, cho đến trọn đời” là châm ngôn sống của Anrê. Cha Đắc Lộ kể lại
những giây phút cuối cùng cuộc đời dương thế của thầy Anrê chiều hôm
26/07/1644: “Người thanh niên
thánh thiện nầy vẫn không ngớt đọc Thánh Danh Chúa Giêsu; ngay khi đầu của thầy
đã rời khỏi cuống họng, và nằm ngả trên vai bên phải, tôi nghe thấy rỏ ràng tên
cực trọng Giêsu phát ra từ vết thương nơi cổ, cùng một giọng giống hệt như từ
cửa miệng phát ra lúc trước; tôi nghe thấy thế rất rõ ràng và tất cả những
người gần tôi lúc ấy đều nói như vậy, vừa vui mừng, lại vừa kinh ngạc. Thánh
Danh Giêsu không thể phát ra từ miệng thầy nữa, thì lại phát ra từ trái tim
thầy, ngay đang lúc thôi đập, để tỏ rằng trái tim nầy dầu có chết, cũng còn giữ
mãi Thánh Danh kia, và khi
không thể dùng miệng lưỡi mà ca ngợi Danh Thánh Giêsu được, thì thầy dùng chính
vết thương mình mà ca ngợi Danh Chúa...” (NCTN-sđd, trang 156-157).
Câu hỏi thảo luận:
1.
Năm sinh và sinh quán của Anrê
Phú Yên?
2.
Hoàn cảnh gia đình của Anrê Phú
Yên?
3.
Châm ngôn sống của Anrê Phú Yên?
BÀI 4: CHÂN PHƯỚC ANRÊ PHÚ
YÊN:
TÍN
THÁC HOÀN TOÀN VÀO TÌNH YÊU QUAN PHÒNG CỦA CHA TRÊN TRỜI .
Năm
1642 Cha Đắc Lộ có dịp đến Phú Yên lần thứ hai, Anrê Phú Yên ngỏ lời với cha
Đắc Lộ, xin theo Cha giúp việc truyền giáo. Lúc đầu cha Đắc Lộ từ chối vì Anrê
còn trẻ, hơn nữa trong thời buổi cấm đạo việc di chuyển của đoàn truyền giáo có
đông người là điều nên tránh. Tuy nhiên sự kiên trì nài nỉ của Anrê và của
người mẹ đạo đức, đến không để van xin cho con út quý yêu của mình được ‘ngồi
bên tả hay bên hữu’ mà đến để van xin được đồng hành yêu mến và làm chứng cho
Chúa Giêsu. Thiện chí đó đã khiến Cha Đắc Lộ gạt sang một bên cái lôgíc rất hợp
tình hợp lý, rất khôn ngoan, rất người kia, để nhường chổ cho cái lôgíc tình
yêu quan phòng huyền nhiệm của Thiên Chúa chiếm hữu và hướng dẫn. Hoan hô Cha
Đắc Lộ! Bài giáo lý bao đồng Cha truyền lại cho Anrê Phú Yên không phải là
những lời nói suông mà là một thái độ sống ấn tượng. Anrê đã nhập tâm bài giáo
lý bao đồng ấy: Tín thác hoàn toàn vào tình yêu quan phòng của Cha trên trời.
Lòng tín thác ấy đã được tỏ lộ mạnh mẽ trong cuộc đời, nhất là lúc đối diện với
đau khổ và cái chết.
Trong
sân nhà lao, Anrê Phú Yên đã khẳng định lòng tín thác đó khi nói với đám đông
lương giáo vây quanh mình: “Các anh em
thấy rõ tôi đây đã bị bắt và sắp phải chết, chẳng phải vì ăn cướp, giết người
hay làm thiệt hại ai, mà chỉ vì tôi đã nhìn nhận Chúa tể trời đất và Con Một
Người xuống thế chuộc tội cho ta. Mọi sự ta có đều do Người. Thế mà người ta
lại muốn tôi phạm đến Người. Tôi chẳng sợ bất cứ hình phạt nào người ta có thể
bắt tôi chịu, tôi chỉ sợ lửa hoả ngục đời đời. Hỡi anh em, anh em hãy coi
chừng, đừng từ chối ơn Đức Chúa Trời đã ban cho anh em ” (NCTN-sđd. tr.148). Và khi đã bị lý
hình hành quyết như Cha Đắc Lộ kể:“ Tôi
mê hồn nhìn thấy người thanh niên chân phước kia, lúc ấy quỳ gối, và đã bị đâm
ba lần ở sau lưng, chẳng những không ngã quỵ, mà lại không hề lay chuyển; Thầy
được vững mạnh như vậy trong ơn thánh sủng nâng đỡ Thầy; Thầy vẫn luôn luôn
không chuyển động, và tôi thấy diện mạo của Thầy không mất chút nào về vẻ bình
thản cũng như về màu sắc”. (NCTN-sđd,
tr. 156)
“Những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên
Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu
kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh, những gì thế gian
cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để hủy diệt
những gì hiện có” (1C 1,27-28).
Quả
vậy, Thiên Chúa Tình Yêu và Toàn Năng đã làm những điều đó nơi cuộc đời thầy
Anrê Phú Yên. Cha Đắc Lộ viết:“Thầy
sống giữa chúng tôi như một vị thánh nhỏ”. Quả vậy, Anrê nhỏ con, nhỏ
người, ốm yếu, làm những việc nhỏ: Dọn bàn thờ, làm hang đá, chăm sóc bệnh
nhân..., nhỏ nhất trong nhóm thầy giảng Đàng Trong, nhỏ tuổi đời, nhỏ tuổi đạo,
nhỏ tuổi tu: Sinh năm 1625, rửa tội năm 1641, nhập đoàn thầy giảng năm 1642,
khấn trọn năm 1643, tử đạo năm 1644. “Ơn
Ta đủ cho con” (2C 12,9). Thiên Chúa đã chọn và ban ơn đủ cho người con
nhỏ đầy lòng tín thác vào Ngài.
Qua
Anrê Phú Yên, một lần nữa ‘con đường thơ ấu’ của Tin Mừng được chứng nghiệm. Càng
khiêm nhường, ơn Chúa càng cao dày; càng trở nên bé thơ càng đón nhận được
nhiều âu yếm của Thiên Chúa, “Như
người mẹ âu yếm con mình, cũng thế, Ta sẽ an ủi con, Ta sẽ bồng con trên ngực
của Ta, và Ta sẽ ru con trên gối của Ta’’ (Is 66, 12-13).
Câu hỏi thảo luận:
1.
Lý do nào khiến cha Đắc Lộ nhận Anrê Phú Yên đi theo ngài?
2.
“Bài giáo lý” sống động đầu tiên cha Đắc Lộ ghi lại nơi
Anrê Phú Yên là gì? Bằng cách nào?
3.
Kể lại một vài mẫu gương Anrê Phú Yên sống tín thác vào
tình yêu quan phòng của Thiên Chúa.
BÀI 5: CHÂN PHƯỚC ANRÊ PHÚ YÊN:
QUÊN MÌNH ĐỂ PHỤC VỤ
Nơi
trường thầy giảng ở Hội An, Anrê theo đuổi việc tu đức và học vấn nhưng không
bỏ qua những việc cần làm để giúp đỡ người khác, như Cha Đắc lộ nhận xét người
học trò nhỏ của mình: “Người thầy
không khỏe mạnh gì lắm, thế mà việc khó mấy trong nhà, thầy cũng làm luôn,
nhiều khi lại làm quá sức mình; thầy quên mình để giúp kẻ khác”. Sự
thông minh và những khả năng của thầy chẳng làm hại chút nào đến đường tu đức
của thầy: “Tất cả những lợi điểm đó
chẳng làm cho thầy có chút vẻ gì là kiêu ngạo hay tự mãn: Thầy coi mình như kém
hết mọi người, và không có gì làm cho thầy bằng lòng hơn là được dịp phục vụ
người khác”.
Ngày
25 tháng 7 năm 1644, ông Nghè Bộ cho lính đến trụ sở Dòng Tên tại Hội An tìm
bắt thầy Inhaxiô theo lệnh bà Tống Thị. Hôm ấy Cha Đắc Lộ và thầy Inhaxiô cùng
với 04 thầy khác đang đi làm việc tông đồ, thầy Anrê Phú Yên ở nhà săn sóc 04
thầy trong nhóm đang bị bệnh. Toán lính không tìm thấy thầy Inhaxiô, Thầy Anrê
bạo dạn nói với toán lính: “Nếu các
ông muốn bắt thầy Inhaxiô thì vô ích vì Inhaxiô không có ở đây. Còn muốn bắt
tôi thì rất dễ dàng, tôi là tín hữu, hơn nữa là thầy giảng. Tôi có cả hai tội
mà các ông khép cho thầy Inhaxiô để bắt thầy ấy. Nếu thầy ấy có tội thì tôi làm
sao vô tội được”.
Toán
lính không bỏ lỡ cơ hội, họ bắt và trói thầy Anrê như chiên hiền lành không
chống cự. Sau đó toán lính lôi một thầy đang đau nằm trên giường, định bắt giải
đi. Thầy Anrê dịu ngọt thuyết phục, họ để cho thầy ấy được tự do, còn chính
người van xin biện hộ cho anh em thì lên đường khổ nạn.
Với
đức nhân, với lòng dũng cảm, với trí khôn ngoan cùng với ơn thánh, thầy Anrê
quyết định để cho lính bắt thầy mau chóng như thế; có thể vì thầy đã nghĩ rằng:
Thầy là người em út trong nhóm thầy giảng, thầy có mất đi cũng không ảnh hưởng
gì đến sinh hoạt, đến sự sống còn của nhóm. Trong khi nếu thầy Inhxiô, người
anh cả khôn ngoan, bản lĩnh...mất đi thì sẽ ảnh hưởng lớn đến nhóm. Cha Đắc Lộ
là sư phụ, là linh hồn của nhóm, nhưng sự hiện diện của cha có tính cách bấp
bênh vì lệnh trục xuất của ông Nghè Bộ có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Do đó sự
hiện diện của thầy Inhaxiô luôn luôn cần thiết cho anh em, cho công cuộc truyền
giáo. Để cho lính bắt thầy như một ‘chiến lợi phẩm’, điều đó có thể làm dịu đi
việc truy tìm thầy Inhaxiô, đồng thời là tiếng chuông báo động nguy hiểm cho
thầy Inhaxiô để có thể trốn thoát.
Nghe
hung tín, Cha Đắc Lộ vội vàng cho các thầy giảng tìm nơi ẩn núp. Còn thầy Anrê
đã chọn hy sinh, quên mình làm hướng đi và thầy đã trung thành đến hơi thở cuối
cùng với lựa chọn của mình.
Ông
Nghè Bộ ra lệnh thi hành bản án nội trong ngày hôm ấy, 26-7-1644. Khoảng 05 giờ
chiều, bốn mươi người lính áp giải thầy Anrê ra pháp trường Gò Xử, cách Dinh
Trấn chừng nữa dặm (800-1000m). Tại Gò Xử, lính đứng bao quanh thầy Anrê Phú
Yên. Cha Đắc Lộ được phép viên chỉ huy cho vào săn sóc thầy Anrê trong giờ phút
sau hết theo lời Cha thỉnh cầu. Cha Đắc Lộ trải chiếu cho thầy quỳ, nhưng thầy
xin được quỳ trên đất để máu thấm xuống đất như Chúa Giêsu xưa. Lính tháo gông
rồi lấy dây thừng trói quanh người thầy, thầy biết đã đến giờ phải nói lời từ
biệt. Thầy quay lại nhìn cha Đắc Lộ và các giáo hữu rồi nói: “Hãy giữ nghĩa cùng Chúa Giêsu cho đến hết
hơi, cho đến trọn đời”.
Câu
hỏi thảo luận:
1.
Cha Đắc Lộ nói gì về sự quên
mình để phục vụ của Anrê Phú Yên?
2.
Nhân đức quên mình để phục vụ
được Anrê Phú Yên thể hiện thế nào trong việc thầy chấp nhận xưng mình để bị
bắt?
BÀI
6: NHỮNG TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN TIÊU BIỂU
Khi
Tin Mừng đến Việt Nam, đủ mọi từng lớp trong xã hội đã đón nhận và nhiệt tình loan
báo Tin Mừng. Trong số đó có những tông đồ giáo dân tiêu biểu như:
-
Các Thầy giảng.
-
Bà Minh Đức Vương Thái Phi.
-
Bà Maria Mađalêna, Ngọc Liên Công Chúa, vợ quan trấn thủ dinh Phú Yên, được rửa tội năm 1636.
-
Hai vợ chồng vị sứ thần của chúa Nguyễn được phái sang Cao Miên, cả hai cùng
theo Chúa với trên 20 gia nhân vào năm 1621 tại Nước Mặn (Bình Định). Ông tên
thánh là Inhaxu, bà là Ursula.
1. Các Thầy giảng
Cha Đắc Lộ nhận xét
về các thầy giảng: “Tôi không thể
nói đến ơn Đức Chúa Trời xui khiến 10 thanh niên đến hợp tác với tôi trong việc
truyền bá Đức Tin. Mười thanh niên này ở các tỉnh khác nhau. Tất cả đều dâng
mình cho Chúa và tận tâm với Hội Thánh. Trong số ấy có 3 người được phúc tử đạo
là Thầy Anrê Phú Yên, Thầy Inhaxiô,
trước đã làm quan, thông Hán học, có nhân đức cao cả, và Thầy Vinh Sơn[3]”
(Voyages et Missions, 1854, trang 187-188).
2. Bà
Minh Đức Vương Thái Phi
Bà Minh Đức Vương
Thái Phi (1568-1649) là vợ cuối cùng của chúa Nguyễn Hoàng, là mẹ của Hoàng tử
Khê. Bà tin Chúa và theo Chúa vào năm 1625 do cha de Pina làm phép rửa tội với
tên thánh Maria Mađalêna.
Những tín hữu được khai sinh trong nhà bà Minh Đức:
Sau khi nhập đạo, bà
Minh Đức hằng lo lắng cho con cháu bà cũng được ơn nhận biết Chúa. Lo cho con
cháu trở lại chưa đủ, bà Minh Đức còn làm việc tông đồ trên một phạm vi rộng
rãi hơn nữa, giữa đồng bào khắp nước. Bà đã nhiệt thành cộng tác vào việc tông
đồ dưới mọi hình thức: xây dựng nhà thờ, giúp đỡ các thừa sai, che chở giáo
dân, làm gương sáng, khuyên nhiều người tin Chúa, trong số nầy đáng kể có Thầy giảng Inhaxiô, nguyên là quan chức trong
dinh của Hoàng Khê.
Sau khi cha Đắc Lộ
bị bắt buộc rời khỏi xứ, Thầy Inhaxiô cùng các thầy giảng khác và nhất là bà
Minh Đức, đã trở nên cột trụ cho tất cả bổn đạo nương cậy trong lúc thiếu bóng linh
mục. Bà hưởng thọ ngoài 80 tuổi, thủ tiết 36 năm, và đã can đảm giữ Đức tin,
tận tụy với việc tông đồ trong khoảng 24 năm liền.
3. Bà Ngọc Liên Công Chúa
Cha Đắc Lộ ghi nhận về bà Ngọc Liên: “Một bà nhân đức tên là Maria Madalena, vợ
quan trấn thủ, đã làm nhiều việc thiện trong tỉnh Phú Yên, bà còn là một người
sáng lập một bệnh viện để chăm sóc tất cả giáo dân và người tân tòng bị chứng
bất trị. Trong đám bệnh nhân có mấy người cùi sẵn sàng chịu phép rửa tội, để
được trong sạch trong linh hồn. Mỗi ngày người ta giảng dạy những điều cần
thiết để chuẩn bị phép bí tích ban ơn thánh, có mấy người bổn đạo cũ đến giúp
và dự vào việc huấn giáo” [4]. Ngôi nhà thương của bà Maria Mađalêna
ở Phú Yên mở đầu cho các công cuộc từ thiện của Giáo hội Việt Nam . Ngoài ra bà còn cung cấp lương
thực cho 12 thầy giảng và một số người nghèo khổ, neo đơn. Năm 1674 bà còn sống
và vẫn dạy giáo lý. Không biết bà đã qua đời khi nào.
Câu hỏi thảo luận:
1.
Cha Đắc Lộ nhận xét thế nào về các thầy giảng?
2.
Kể một vài gương tông đồ của bà Minh Đức?
3.
Kể mộtvài gương tông đồ của bà Ngọc Liên?
Trong tinh thần uống nước nhớ nguồn, biết ơn tiền nhân,
soi gương người xưa, nhìn lại hoạt động truyền giáo của các thừa sai dòng Tên
trong 50 năm ở Đàng Trong (1615-1665) và 37 năm ở Đàng Ngoài (1626-1663), xét
trên yếu tố con người, chúng ta có thể nói rằng công quả, hay thành công của
các thừa sai Dòng Tên có được là do các ngài làm việc có phương pháp: tận dụng
và thích nghi.
1. Tận
dụng những thuận lợi
- Năng tiếp xúc với các quan chức cũng như tiếp cận người
dân Việt sẳn có đời sống thanh bạch, chất phác và tâm hồn từ bi thương người,
tôn trọng lễ nghĩa cương thường, nhằm kiến tạo cảm tình, hiểu biết nhau.
- Không có óc bài ngoại, nên các thừa sai được giáo dân
tôn trọng, quý mến, được coi như những người cha trong nhà. Với tình nghĩa thầy
trò, các thừa sai có thể tìm dễ dàng những người cộng tác trung thành và quyến
luyến trong hoạt động tông đồ giáo dân, đặc biệt tổ chức thầy giảng là một tổ
chức đã được đề cao trong lịch sử truyền giáo Việt nam.
- Dùng người Việt để loan Tin Mừng cho người Việt. Các
thừa sai đã kể cho chúng ta biết bao kết quả thu lượm được do việc tin tưởng,
đào tạo giáo dân đạo đức, khơi động tinh thần truyền giáo những giáo dân như bà
Maria Minh Đức, Bà Ngọc Liên công chúa, và nhiều những ‘tông đồ giáo dân bình
dân’ xuất sắc trong lãnh vực và nghề nghiệp của mình như bà Gioanna, vừa tảo
tần buôn bán vừa đem Tin Mừng đến cho hơn vài chục người. Cụ nghè Giuse, người được kính nể trong trấn Quảng Nam. Cụ được
cha de Pina dạy giáo lý. Cụ tìm đến Nước Mặn gặp cha Buzomi để đối chiếu giáo
thuyết của hai cha. Cụ quyết định theo Chúa và đã thuyết phục được nhiều người trong nho giới theo Chúa. Trong số
đó có cụ Phêrô, cụ Manuêlê và nhất là cụ Phaolô, cố vấn hình luật của quan trấn
Quảng Nam. Như hương thơm tỏa lan, từ uy tín, ảnh hưởng các cụ kể trên, nhiều
người đã theo Chúa.
2. Thích nghi hoàn cảnh và môi
trường xã hội
Có nhiều thuận lợi nhưng không thiếu thánh giá. Nhiều
phen các thừa sai bị trục xuất vì những lý do khác nhau. Các ngài phải trốn
lánh và kiên trì vào ra, lui tới vùng truyền giáo như những điệp khúc.
Các thừa sai rất hy sinh. Hy sinh ‘bánh mì’ người Âu châu
để ‘ăn cơm’ với người Việt. Nhà tranh vách đất như người dân Việt. Một thừa sai có
thể phụ trách cả một giáo đoàn rộng lớn, không mấy lúc được nghỉ ngơi, nhiều đêm thức trắng liên tiếp dạy giáo lý,
giải tội, yên ủi giáo dân. Tất
cả một đời hy sinh vô bờ bến.
Bên lòng hy sinh đó, các thừa sai không hề nghĩ đến việc
trục lợi cho mình, cho Dòng mình hay cho quốc gia mình. Trong các bản tường
trình hay các sách để lại, chúng ta không hề thấy đả động đến vấn đề quốc gia
của các ngài. Tất cả cho dân Việt, không pha trộn vấn đề chính trị trong vấn đề
tôn giáo.
Chúng ta cũng nhận thấy các thừa sai rất chịu khó đồng hóa với người Việt để tìm hiểu văn
hóa, phong tục, tính tình, hòa mình với nếp sống Việt, thích ứng đạo lý với
trình độ tinh thần và tình trạng xã hội của người Việt. Chữ quốc ngữ là một
công trình thích ứng lớn lao xây dựng nền văn hóa Việt Nam nói chung và cách
riêng một nền văn hóa Kitô giáo.
Câu hỏi thảo luận:
1.
Phương pháp nào đã giúp cho các thừa sai dòng
Tên thành công trong việc truyền giáo?
2.
Các thừa sai dòng Tên đã tận dụng những thuận
lợi trong môi trường truyền giáo ở Việt Nam như thế nào?
3.
Các thừa sai dòng Tên đã thích ứng với những
hoàn cảnh không thuận lợi trong môi trường truyền giáo ở Việt Nam như thế nào?
BÀI 8 . CÁC THỪA SAI DÒNG TÊN
VỚI NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM
1. Chữ quốc ngữ
Việc khai sinh chữ quốc ngữ là sự chung tay góp sức của
nhiều thừa sai Dòng Tên trong thời kỳ khai sinh Giáo hội Việt Nam . Giai đoạn đầu phải kể đến sự
đóng góp của các thừa sai ở Nước Mặn như cha de Pina, cha Borri, cha Buzomi.
Công lao của các thừa sai khác như: cha Gaspar d’Amaral, cha Antonio Barbosa và
nhất là cha Đắc Lộ là ở các giai đoạn sau. Ngoài ra cũng phải kể đến sự
cọng tác của những kitô hữu Việt Nam . Cha de Pina đã được giúp đỡ
bởi một học giả trẻ người Việt có tên thánh là Pero, một "nhà văn giỏi chữ
Hán bậc nhất" (Roland, tr. 3). Cha
Đắc Lộ bày tỏ lòng biết ơn bằng những lời cảm động: "Giúp tôi là một cậu
bé bản địa tuyệt vời, người đã dạy tôi trong ba tuần tất cả các thanh điệu của
tiếng Việt và cách phát âm tất cả các từ". (Alexandre de Rhodes, Voyages et Missions, 1854, tr. 89)
Theo
cha Joaõ ROIZ, năm 1620 đã có hai thừa sai nói thạo tiếng Việt đó là cha Pina
và cha Borri (Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ quốc ngữ, Sài Gòn 1972,
trang 79).
Cha Francesco de Pina sang
Việt Nam
khoảng cuối năm 1617, lúc người ta đang săn đuổi các thừa sai. Năm 1618, cha về
ở tại Nước Mặn, cha mới có điều kiện nghiên cứu và học tiếng Việt. Cha ở Nước
Mặn hai năm, sau đó cha đi đi về về giữa Nước mặn và Hội An. Cha Chiristoforo
Borri sang Việt Nam
và chỉ ở tại Nước Mặn từ năm 1618 đến năm 1621 rồi trở về lại Ma Cao. Do đó, có thể nói Nước Mặn là nơi phôi thai chữ Quốc ngữ.
2. Những đóng góp quý hóa về xã hội và văn hóa.
Các thừa sai Dòng Tên không chỉ góp phần xây dựng nền văn
hóa Việt Nam
trong việc sáng kiến ra chữ quốc ngữ. Với các sách đã xuất bản, các ngài đã để
lại cho chúng ta một kho tài liệu quý hóa về lịch sử, địa lý, phong tục, tôn
giáo của người Việt Nam
thời đó. Các ngài là những người đầu tiên đem nền văn minh Tây phương vào nước
Việt và làm trung gian liên lạc hai nền văn hóa Âu Á, nhờ các ngài mà thế giới
biết nước Việt chúng ta và trọng người dân Việt.
Trong thời gian 50 năm truyền giáo, các thừa sai đã cho
xuất bản gần 80 cuốn sách các loại. Trong
số các tác phẩm đó, những sách đáng chú ý nhất về lịch sử, địa lý, phong tục,
tôn giáo của người Việt là cuốn “Tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong” của cha Borri xuất bản lần đầu tiên năm 1631, và
cuốn “Lịch sử xứ Bắc Kỳ” của cha Đắc Lộ. Ngoài ra cũng phải nhắc đến hai tác
phẩm của cha Đắc Lộ: “Văn phạm Việt ngữ”
và “Từ điển Việt-Bồ-La”.
3. Tiên khởi khai sinh một nền
văn chương Công giáo
Những cuốn sách bằng tiếng Việt mà các cha viết cho giáo
dân và cho các thầy giảng là những
cuốn sách đầu tiên trong tủ sách văn chương công giáo Việt Nam . Đáng chú ý là cuốn sách bổn
“Phép Giảng Tám Ngày” của cha Đắc Lộ viết bằng chữ quốc ngữ, in ở Roma. Các
cuốn sách khác bằng chữ nôm của cha Majorica, gồm nhiều thể loại: truyện thánh,
sách gẫm, kịch tuồng… Theo cha Marini thì cha Majorica đã viết hoặc dịch tất cả
48 cuốn thuộc nhiều thể loại để hướng dẫn đời sống giáo dân trong những khi
vắng mặt các thừa sai. Rất tiếc cuốn sách về đạo lý công giáo đầu tiên bằng
tiếng Việt ở Nước Mặn, Qui Nhơn, do cha Buzomi và cha de Pina cho ra đời được
cha Đắc Lộ nhắc đến nhưng đã bị thất lạc.
Câu hỏi thảo luận:
1.
Kể ra những việc tiêu biểu mà các thừa sai dòng Tên đã để lại cho nền
văn hóa Việt Nam .
2.
Các thừa sai thế hệ đầu tiên ở Nước Mặn đã đóng góp gì cho việc hình
thành chữ quốc ngữ?
[1] Theo cha Marini, trong cuốn Missioni, tr.360, thì số
giáo dân lúc đó vào quãng 50.000.
[2] Năm
1636, Ngọc Liên Công Chúa lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy và lập một nhà nguyện nhỏ
tại Dinh Trấn Biên. Đây là nhà nguyện đầu tiên trên vùng đất Phú Yên.
[3] Thầy Vinh Sơn quê Quảng Ngãi.
[4] Hành trình truyền giáo, A. de Rhodes,
Hồng Nhuệ dịch, trang 105 -106, tủ sách đại kết, 1994
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét