HỌC HỎI
SẮC LỆNH VỀ HOẠT
ĐỘNG TRUYỀN GIÁO CỦA GIÁO HỘI
"AD
GENTES"
PHẦN DẪN NHẬP
1. "Ad Gentes" có
nghĩa là gì?
Theo thường lệ của Giáo Hội Công Giáo Rôma, người ta
lấy những chữ đầu để đặt tên cho các tài liệu. "Ad Gentes" là những chữ đầu của Sắc lệnh về hoạt động truyền
giáo của Giáo Hội, có nghĩa là "đến
với muôn dân". Sắc lệnh được thông qua với 2.394 phiếu thuận và 5
phiếu chống, và được Đức Giáo Hoàng Phaolô VI ban hành ngày 7 tháng 12 năm
1965.
2.
Bố cục của sắc lệnh "Ad Gentes" như thế nào? Sắc lệnh gồm có 42 số, gồm phần mở đầu, phần kết
luận và nội dung chia làm 6 chương. Sau đây là các phần chính:
- Phần mở đầu (số 1).
- Sáu Chương:
1. Những nguyên tắc
giáo thuyết (số 2-9).
2. Chính công việc
truyền giáo (số 10-18).
3. Các Giáo Hội địa
phương (số 19-22).
4. Các nhà truyền
giáo (số 23-27).
5. Tổ chức hoạt động
truyền giáo (số 28-34).
6. Sự cộng tác (số
35-41).
- Kết luận (số 42).
3. Ngoài Sắc lệnh "Ad Gentes", có
những tài liệu nào nói về việc truyền giáo?
Sau Công Đồng Vatican II, có
một vài tài liệu nữa của Giáo Hội khuyến khích công việc truyền giáo:
- Tông huấn Evangelii Nuntiandi (Loan báo Tin Mừng)
của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI ban hành ngày 8 tháng 12 năm 1975. Tông huấn bàn
về công việc truyền giáo, khẳng định vai trò truyền giáo của mỗi Kitô hữu (chứ
không chỉ riêng các linh mục được phong chức) trong việc truyền giáo.
- Thông điệp Redemptoris Missio (Sứ vụ Đấng Cứu Thế)
của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ban hành ngày 7 tháng 12 năm 1990 nhằm kỷ
niệm 25 năm sắc lệnh "Ad Gentes". Thông điệp này nói về "sự khẩn
cấp của hoạt động truyền giáo" và "mời gọi Giáo Hội canh tân cam kết
truyền giáo của mình".
4. Kitô hữu phải làm gì với việc truyền giáo "đến
với muôn dân"?
Nói cách khác, sứ mệnh của
chúng ta như là Giáo Hội hiện diện giữa các dân tộc, các nền văn hóa, ở mỗi
thời điểm của lịch sử là gì? Câu trả lời của thần học cổ điển có thể được tóm
tắt trong 3 từ Hy Lạp là kerygma, diakonia và koinonia. Kerygma
(loan báo Tin Mừng đầu tiên), có nghĩa là chia sẻ Tin Mừng về Đức Giêsu Kitô,
Chúa chúng ta "lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện" (2 Tm 4,
2) - Đây là hành động vì Đức Tin. Diakonia (phục vụ), có nghĩa là giúp
đỡ tất cả những ai đang chịu đau khổ và cần giúp đỡ - Đây là hành động vì đức
Ái. Koinonia (hiệp thông), có nghĩa là quy tụ mọi người lại trong cùng
một đức tin để cùng hưởng nếm sự hòa bình của Nước Trời vào cuối thời gian - Đây là hành động của đức Cậy.
5.
Giáo Hội là "Bí tích phổ quát của ơn cứu độ". Điều này có nghĩa là
gì?
Đôi
khi Giáo Hội được gọi là "bí tích
phổ quát của ơn cứu độ". Từ "bí
tích" ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, muốn nói lên rằng Giáo Hội là
phương tiện do Thiên Chúa thiết lập để ban ân sủng cho tất cả mọi người.
Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, theo tư
tưởng Thần Học Kitô giáo có từ thời các thánh giáo phụ, cũng khẳng định rằng
Giáo Hội Công Giáo là "bí tích phổ
quát của ơn cứu độ" (các số 774–776), và xác quyết rằng: "Nơi trần gian này, Giáo Hội là bí tích ơn
cứu độ, là dấu hiệu và dụng cụ của mối hiệp thông giữa Thiên Chúa và người ta"
(số 780). Và vì Giáo Hội là phương tiện để Thiên Chúa ban ân sủng nên không có
ơn cứu rỗi ngoài Giáo Hội Công Giáo. Tuy nhiên, cần phải hiểu giáo huấn này
theo như Giáo Hội hiểu.
Đức
Piô IX (Quanto conficiamur moerore,
tháng 10 năm 1863) đã dạy rằng: "Thiên Chúa … với lòng nhân hậu và thương
xót vô cùng, đã không muốn ai phải bị hình phạt đời đời vì đã những lỗi phạm
không cố ý". Công đồng Vatican II (Lumen
gentium, số 16) cũng nói: "Những kẻ vô tình không nhận biết Phúc Âm
của Chúa Kitô và Giáo Hội Người, nhưng nếu thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa, và
dưới tác động của ơn thánh, họ cố gắng chu toàn Thánh Ý Thiên Chúa trong công
việc mình theo sự hướng dẫn của lương tâm, thì họ có thể được cứu rỗi".
Đức Piô XII cũng nói rằng (Mystici
Corporis Christi) một người có thể "thuộc về Giáo Hội bằng một ý muốn
hoặc ước ao nào đó mà họ chưa nhận biết được", nghĩa là cách chung chung
họ có ý muốn làm theo ý của Thiên Chúa.
Thánh
Phaolô khẳng định: "Chúa cũng là Thiên Chúa của các dân ngoại nữa"
(Rm 3, 28) nên Ngài sẽ liệu cách cho họ thuộc về Ngài. Thánh Giustinô cũng nói
Lời Chúa hiện diện trong tâm hồn mọi người, kể cả dân ngoại là những người
"không có Lề Luật (tôn giáo mạc khải) nhưng theo lẽ tự nhiên mà làm những
điều luật dạy; họ cho thấy điều gì luật đòi hỏi thì đã được ghi khắc trong lòng
họ" (Rm 2, 14-16). Và như thế, tùy theo sự đáp trả của mình, họ sẽ được
cứu độ hay là không.
Rõ
ràng, Lời Chúa hoặc Thần khí của Đức Kitô đã khắc ghi lề luật trong tâm hồn họ,
nghĩa là làm cho họ hay biết những gì phải làm. Nếu họ làm theo mà không hay
biết điều họ đang làm, song khách quan mà nói, họ đã làm theo Lời Chúa. Và như
thế, Thánh Giustinô có lý khi gọi họ là Kitô hữu. Tuy không chính thức gia nhập
Giáo Hội, nhưng về bản chất họ đã hội đủ điều kiện để làm thành viên của Giáo Hội.
Thật vậy, Công Đồng Vatican II (Lumen
Gentium, số 49) viết rằng: " Tất cả những ai thuộc về Chúa Kitô và
nhận lãnh Thánh Thần Người, đều họp thành một Giáo Hội duy nhất và liên kết với
nhau trong Người (x. Eph 4,16)."
Ý niệm
Giáo Hội như là bí tích phổ quát không phải là một ý niệm mới mẽ, nó đã xuất
hiện trong các bài viết của Thánh Cyprianô và Thánh Tôma Aquinô. Nó chỉ muốn
nói lên rằng Giáo Hội cần thiết cho ơn cứu rỗi. Tuy nhiên, sự cần thiết này
không thuộc về trật tự pháp lý mà là bí tích.
6. Vậy thì những ai sẽ không nhận được ơn cứu độ?
Chỉ có
những ai có hiểu biết và cố tình phạm các tội lạc giáo (từ chối những tín điều
được Thiên Chúa mạc khải) hoặc ly giáo (ly khai khỏi Giáo Hội Công Giáo hoặc
gia nhập các Giáo Hội ly giáo) thì sẽ không có ơn cứu độ cho đến khi họ hối cải
và quay trở về hiệp nhất với Giáo Hội Công Giáo.
7. Vì
sao Giáo Hội khẳng định mình là "bí tích cứu độ"?
Khẳng
định rằng Giáo Hội là bí tích cứu độ phổ quát là khẳng định cho một sự dấn thân
hơn là khẳng định một thực tại. Đây chỉ là cách diễn tả ơn gọi chính yếu của
Giáo Hội. Để thực hiện ơn gọi là bí tích cứu độ này, Giáo Hội phải thường xuyên
hội nhập vào mỗi dân tộc và mỗi nền văn hóa.
Nhiệm
vụ của Giáo Hội không phải là mang ơn cứu độ đến cho thế giới. Thế giới đã được
Đức Kitô cứu độ và thế giới không nhờ Giáo Hội mà được cứu độ hơn. Nhiệm vụ của
Giáo Hội là ngày càng trở nên một dấu hiệu hiệu quả và phổ quát về ơn cứu độ mà
Thiên Chúa, qua Đức Kitô, đã dành cho nhân loại. Qua và trong nhiệm vụ của mình
đối với các dân tộc mà Giáo Hội hoàn thành ơn gọi làm bí tích ơn cứu độ phổ
quát, là biểu tượng cho Thiên Chúa Cứu Thế bao trùm toàn thể nhân loại trong
Đức Kitô. Nếu Giáo Hội là bí tích phổ quát thì đây không phải là một đặc ân mà
là một trách nhiệm. Đây là lời mời gọi để phục vụ và yêu thương không chỉ dành
cho những người gần gũi với chúng ta mà còn cho những ai xa cách với chúng ta.
8. Tại sao Giáo Hội có bổn phận truyền giáo?
Vì bản tính công giáo (phổ
quát) của mình và lệnh truyền của Chúa Giêsu cũng như theo gương các thánh Tông
Đồ, Giáo Hội có bổn phận phải loan báo Tin Mừng cho mọi người và thành lập cộng đồng tín hữu ở khắp nơi để Lời
Chúa được phổ biến và tôn vinh (2 Tx 3, 1).
Thứ đến, chúng
ta cũng như Thánh Phaolô, “được ân sủng là để rao giảng cho Dân Ngoại các kho
tàng khôn lường của Chúa Kitô” (Eph 3, 8). Sự sống mới trong Chúa Kitô là một
“Tin Mừng” cho con người nam nữ ở mọi thời đại: tất cả mọi người được kêu gọi
đến sự sống mới này và được ấn định để thừa hưởng sự sống ấy. Thật vậy, tất cả
mọi người đang tìm kiếm sự sống ấy, mặc dù có những lúc tìm kiếm bằng một đường
lối lầm lẫn, và mọi người đều có quyền biết đến giá trị của tặng ân này, cũng
như được tự do tiến đến với tặng ân ấy. Giáo Hội cũng như mọi người Kitô hữu ở
trong Giáo Hội không được giữ kín hay độc quyền trên sự sống mới và trên kho
tàng họ đã lãnh nhận bởi lòng lành Thiên Chúa là để thông truyền cho toàn thể
loài người ấy.
Đó là lý do tại
sao việc truyền giáo của Giáo Hội phát xuất chẳng những từ lệnh Chúa truyền, mà
còn từ những đòi hỏi sâu xa nơi sự sống của Thiên Chúa ở trong chúng ta nữa.
Những ai được tháp nhập vào Giáo Hội Công Giáo phải cảm nhận được đặc ân này,
và chính vì lý do đó, họ càng buộc phải làm chứng cho đức tin cũng như cho
đời sống Kitô giáo, như là một việc phục vụ anh chị em của mình và như là
một đáp ứng tương xứng với Thiên Chúa. (Redemptoris
Missio, số 11)
Quan niệm về truyền giáo đã
liên tục lớn mạnh và phát triển theo suốt dòng lịch sử Giáo Hội. Từ khi Giáo
Hội được hình thành, luôn hiện diện một ước muốn truyền bá đức tin Kitô giáo.
Ngay trong thời Cựu Ước vẫn thấy được sự xuất hiện của chủ đề truyền giáo.
Thiên Chúa đã sai Giona đến thành Ninivê để làm gì nếu không phải là truyền
giáo: “Hãy đi đến thành Ninivê để rao giảng sứ điệp mà Ta ban cho ngươi” (Gn 3,
2). Và quan niệm truyền giáo tiếp tục phát triển trong Tân Ước trong suốt thời
Chúa Giêsu mãi cho đến khi Ngài uỷ thác sứ mệnh cho các môn đệ: “Hãy đi và thâu
thập các dân tộc làm môn đệ, làm phép rửa cho họ và dạy họ tuân giữ mọi điều Ta
đã ban cho các ngươi” (Mt 28, 19-20).
9. Các hình thái của hoạt động truyền giáo?
Truyền
giáo vừa duy nhất vừa đa dạng. Duy nhất vì xuất phát từ sứ mệnh của chính Thiên
Chúa Ba Ngôi và đa dạng vì nhằm đến nhiều đối tượng khác nhau. Trong Thông điệp
Redemptoris Missio, số 33-37,
Đức Gioan Phaolô II đã rằng vấn đề về
tính cách đa diện nơi các hoạt động trong cùng một sứ mệnh truyền giáo duy nhất
của Giáo Hội không thuộc về bản chất của sứ mệnh truyền giáo, mà là do bởi tính
cách khác nhau nơi hoàn cảnh thực hiện việc truyền giáo.
"Nhìn
vào thế giới hôm nay, bằng quan điểm của việc truyền giáo, chúng ta có thể phân
biệt ba trường hợp.
Trường
hợp thứ nhất được hoạt động truyền giáo của Giáo Hội nhắm tới, đó là các dân tộc, các nhóm người và các
tương quan văn hóa xã hội chưa biết đến Chúa Kitô cùng Phúc Âm của Người,
hay còn thiếu những cộng đồng Kitô hữu đủ trưởng thành để có thể hiện thực đức
tin trong môi trường sống của họ, cũng như để loan báo đức tin của họ cho những
nhóm người khác. Đây là việc truyền giáo ad
gentes theo đúng nghĩa của từ ngữ.
Trường
hợp thứ hai là những cộng đồng Kitô hữu
được thiết lập đầy đủ và vững chắc. Họ hăng say với đức tin và sống đời Kitô hữu của mình. Họ làm chứng cho
Phúc Âm nơi hoàn cảnh sống của mình và cảm thấy cần phải dấn thân cho việc
truyền giáo chung. Giáo Hội thực hiện hoạt động và việc mục vụ chăm sóc tín hữu
của mình nơi những cộng đoàn này.
Trường
hợp thứ ba là trường hợp ở giữa, đặc biệt là trường hợp ở nơi những xứ sở có gốc gác Kitô giáo lâu đời,
đôi khi ở cả những Giáo Hội không lâu đời như vậy, là những nơi hết thảy các
nhóm người lãnh nhận phép rửa đã mất đi cảm quan sống động của đức tin,
thậm chí không còn coi mình là phần tử của Giáo Hội nữa, và sống một cuộc đời
xa biệt hẳn với Chúa Kitô cũng như Phúc Âm của Người. Điều cần phải làm trong
trường hợp này đó là “tân phúc âm hóa” hay “việc tái phúc âm hóa” vậy". (Redemptoris Missio, số 33)
10. Có cách hiểu nào khác ngoài
hoạt động truyền giáo "đến với muôn dân" (Missio ad gentes)?
FABC
(Federation
of Asian Bishops' Conferences - Liên hiệp các Hội Đồng Giám
Mục Á Châu) đã dùng hạn từ “missio inter gentes”[1]
(truyền giáo giữa các dân tộc) để
diễn tả đường lối truyền giáo học ngày nay, ít ra là trong bối cảnh của Á Châu.
Hạn từ này nói lên sự dứt khoát vượt qua những phương thức truyền giáo của quá
khứ và nay không còn phù hợp nữa. Hạn từ ‘missio inter gentes’ được
William R. Burrows dùng lần đầu tiên tại cuộc Hội Nghị Thường Niên lần thứ 56
của Hội Thần Học Công Giáo Mỹ (Milwaukee, 2001). Nhà thần học Peter C. Phan
cũng sử dụng hạn từ này như một sự thay thế cho ‘missio ad gentes’ khi
ông thảo luận về ý nghĩa của hoán cải trong ‘thần học truyền giáo mới’.
11. Lý do của sự thay
đổi từ ngữ?
Hình
ảnh truyền thống của truyền giáo như là ‘sai ra đi’ xem ra không còn thiết thực
nữa – không chỉ bởi vì hình ảnh đó ‘quá gắn kết với một mẫu thức Giáo Hội nặng
tính cơ chế và phẩm trật’, nhưng còn bởi vì hình ảnh ấy hàm nghĩa rằng truyền
giáo là một ‘con đường một chiều’,
không mấy xét đến sự hiện diện và hoạt
động sẵn có của Thiên Chúa trong thế giới. FABC nghĩ về sứ mạng truyền giáo
của Giáo Hội như là được cảm hứng từ hoạt động trước của Thiên Chúa trong
thế giới, xuyên qua sứ mạng của Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Thực vậy, theo
nhận định của FABC, những nền móng cứu độ học sâu sắc của các tôn giáo và triết
học Á Châu vốn truyền cảm hứng cho vô số người Á Châu không phải là điều xấu xa
lầm lạc, nhưng xuất phát từ chính Thiên Chúa. Vì thế, FABC dứt khoát khẳng định
rằng kho tàng khôn ngoan của các triết học Á Châu và các yếu tố cứu độ học của
các tôn giáo Á Châu đều được tác động bởi Chúa Thánh Thần, Đấng hoạt động vượt
quá các ranh giới của Giáo Hội cơ chế.
12. Thần học "missio inter gentes" nhấn
mạnh đến điểm nào?
FABC nhấn mạnh đến mối liên đới, hiệp thông với các
dân tộc Á Châu. Giáo Hội Á Châu nhận ra rằng để tồn tại mình phải hòa nhập vào
trong cái đa dạng và đa nguyên ở đây, chia sẻ đời sống với đồng bào và phục vụ
cho sự sống, như Đức Giêsu đã làm. Thần học truyền giáo của FABC không bắt đầu
từ phía trên hay từ trung tâm, nhưng là từ phía dưới và từ ngoài rìa, di chuyển
về trung tâm. Đối với FABC, truyền giáo và việc loan báo Tin Mừng không phải là
một ‘con đường một chiều’, một ‘sự rao giảng một chiều’ về những nguyên tắc tín
lý hay những chân lý đức tin trừu tượng. Vì vậy, khi xây dựng phương thức missio
inter gentes để truyền giáo tại Á Châu, FABC bắt đầu không phải với những ý
niệm và phạm trù thần học trừu tượng phổ quát, nhưng với những kinh nghiệm đời
sống và những thách đố khác nổi lên từ cuộc gặp gỡ đang diễn ra với các thực
tại hiện nay của Á Châu và với những bối cảnh đặc thù Á Châu. Đối với FABC,
truyền giáo là một cái gì lớn rộng hơn việc trồng một Giáo Hội địa phương
mới ở nơi mà nó chưa hiện diện. Các giám mục Á Châu không coi các dân tộc Á
Châu như những đối tượng của truyền giáo, theo nghĩa là phải được giúp cải giáo
và đưa vào Giáo Hội, mặc dù các Kitô hữu sẵn sàng mời gọi họ như thế. Đúng hơn,
tiêu điểm của sứ mạng inter gentes của các Giáo Hội địa phương Á Châu
được đồng hóa với chính tiêu điểm của sứ mạng Đức Giêsu: đem Nước Thiên Chúa
đến giữa đồng bào mình.
13. Sự tiếp cận giữa hai kiểu thức khác nhau ở điểm
nào?
Sự khác biệt giữa hai kiểu thức nổi rõ nơi cách tiếp
cận khác nhau đối với vấn đề đa nguyên tôn giáo. Nói chung, missio ad gentes
không thoải mái với đa nguyên tôn giáo, xem tình trạng đa nguyên tôn giáo
như một thách đố lớn đối với Tin Mừng Kitô giáo. Sở dĩ thế bởi vì phương thức missio
ad gentes cắm rễ trong cái nhìn về Kitô giáo như tôn giáo thống trị trong
khung cảnh chính trị, văn hóa và xã hội Âu Châu. Nói riêng, missio ad gentes
giả thiết một cái nhìn cổ điển trong đó Âu Châu (hay Rôma) được xem như
trung tâm của Chân Lý, và công cuộc sứ mạng là việc các nhà thừa sai Âu Châu
thuộc các hội truyền giáo hay các dòng truyền giáo ra đi đến với các vùng mà sự
ngu dốt còn đang thống trị. Mục tiêu của missio ad gentes là: cuối cùng
thì đa nguyên tôn giáo sẽ nhường chỗ, và những người ngoài Kitô giáo sẽ đón
nhận Tin Mừng, bởi vì chỉ Kitô giáo mới có thể thỏa mãn những niềm hi vọng sâu
xa nhất của những người ngoài Kitô giáo.
Trái lại, FABC xem đa nguyên tôn giáo không như một
cái gì phải được đương đầu và vượt qua, nhưng như một yếu tố làm nên khung cảnh
Á Châu. Chính vì thế, các giám mục Á Châu không ngừng cho thấy mối quan tâm tìm
kiếm một phương thức truyền giáo ít có tính đối đầu hơn. Trong khi không
bỏ qua tầm quan trọng của rao giảng, FABC đánh giá cao tình thân hữu và sự tín
nhiệm, việc xây dựng các mối tương quan và đối thọai, cũng như sự liên đới và
hòa điệu như những yếu tố thiết định sứ mạng truyền giáo tại Á Châu. Bởi vì
phương thức truyền giáo của FABC tập chú trên sự thấm nhập của
Tin Mừng Kitô giáo và các Giáo Hội địa phương vào trong các thực
tại Á Châu, với tinh thần dấn thân phục vụ sự sống, nên chúng ta có thể mệnh
danh đó là missio inter gentes - sứ mạng ở giữa các dân tộc Á
Châu.
14. So sánh giữa missio "ad gentes" và "inter gentes"?
Điểm chung giữa tầm nhìn missio inter gentes
(của FABC) và tầm nhìn ad gentes (truyền thống) là cả hai cùng khẳng
định mạnh mẽ sự cần thiết của sứ mạng. Nhưng có những khác biệt trong một số sự
nhấn mạnh và trong các mối ưu tiên. Có thể đối chiếu như sau:
missio
AD gentes
|
missio
INTER gentes
|
1. Xác nhận sự cần thiết của sứ mạng truyền giáo
|
1. Xác nhận sự cần thiết của sứ mạng truyền giáo
|
2. Nhấn mạnh khía cạnh tại sao, cái gì, và ai
của sứ mạng.
|
2. Nhấn mạnh khía cạnh thế nào của sứ mạng.
|
3. Giả thiết Âu Châu (hay Rôma) là trung tâm của chân lý – và các nhà
thừa sai từ đó đi đến với các vùng ngu dốt, tối tăm…
|
3. Nhìn nhận Thần Chân Lý vốn hoạt động trong các nền văn hóa và các
tôn giáo.
|
4. Khó chịu với bối cảnh đa nguyên tôn giáo ở Á Châu.
|
4. Thoải mái với bối cảnh đa nguyên tôn giáo ở Á Châu.
|
5.Ưu tiên rao giảng bằng lời nói. Phương thức sứ mạng truyền giáo có
nhiều tính đối đầu.
|
5. Ưu tiên rao giảng bằng chứng tá. Phương thức sứ mạng truyền giáo
nhắm làm cho Tin Mừng Kitô giáo thấm
nhập vào trong các thực tại Á Châu
|
6. Mục tiêu truyền giáo nghiêng về trồng Giáo Hội.
|
6. Mục tiêu truyền giáo là: xây dựng Nước Thiên Chúa.
|
7. Phương thức lượng tính. Có xu hướng đo lường việc truyền giáo bằng
việc gia tăng những con số hay mở rộng trong địa dư
|
7. Phương thức phẩm tính (qualitative approach). Tìm cách chuyển hóa
và chữa trị sự gãy đổ trong các nền văn hóa và các thực tại Á Châu
|
Trước khi về trời, Chúa
Giêsu đã uỷ thác cho các môn đệ một nhiệm vụ rất quan trọng: truyền giáo (Mt
28, 18-20; Mc 16, 15). Nhiệm vụ này được nhấn mạnh trong suốt đời sống và sứ vụ
của Đức Kitô (Lc 24, 44-49; Ga 20, 21). Tuy nhiên, chỉ sau khi phục sinh và
trước khi về cùng Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu đã long trọng giao cho các môn đệ
một nhiệm vụ cao cả, một “Đại uỷ nhiệm” (La Grande Commission, The Great
Commission).
Thật sự, chủ đề truyền giáo
được bắt đầu ngay từ sách Sáng Thế Ký và được khẳng định trong suốt toàn bộ Cựu
Ước cho đến Tân Ước. Nếu cần phải xác định lệnh truyền giáo bắt đầu từ lúc nào
thì ta có thể nói từ câu St 12, 3: “Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc
nhờ ngươi (Abram)”. Đây là lời khẳng định sớm sủa nhất nói lên mục đích và
chương trình của Thiên Chúa muốn thấy ân sủng và phúc lành của Ngài đến được
với hết thảy mọi người trên mặt đất qua người đại diện là ông Abram. Đây là chủ
đề chính trong St 12, 1-3 mà trong đó ý định chúc phúc của Thiên Chúa được đề
cập đến 5 lần. Thế nhưng nền tảng thực sự của sứ điệp này không bắt đầu ở đó.
Trong một bối cảnh rộng rãi hơn, nó bắt đầu từ phúc lành nguyên thuỷ của Thiên
Chúa dành cho muôn thú và ông bà Ađam Eva trong vườn địa đàng (St 1, 22. 28).
Mặc dù Ađam sa ngã, lời chúc phúc của Thiên Chúa cho nhân loại vẫn tiếp tục với
ước muốn chúc phúc cho Abram, và qua Abram, cho toàn thể thế giới. Rõ ràng
Thiên Chúa đã có ý định dùng Abram như một trung gian để chúc phúc cho các dân
tộc. Đây là giải pháp mà Thiên Chúa dùng để sửa chữa hậu quả của sự sa ngã (St
3) và lời nguyền phân tán loài người đi khắp mặt đất khi họ xây tháp Babel (St 11, 7)
Sách cuối cùng của Kinh
Thánh cũng nhấn mạnh đến sự quan tâm của Thiên Chúa đối với con người: “Mọi chi
tộc và ngôn ngữ, mọi nước và mọi dân” (Kh 5, 9; 7, 9; 14, 6). Như vậy ý định
ban phúc lành cho hết thảy mọi dân tộc, và đây chính là mục tiêu của công cuộc
truyền giáo cho toàn thế giới, đã tạo
nên một lớp vỏ bọc lớn bao trùm lấy toàn bộ Kinh Thánh (inclusion), từ Sáng Thế
cho đến Khải Huyền, từ Cựu Ước cho đến Tân Ước.
16. Chúa Giêsu và sứ mệnh truyền giáo phổ
quát?
Xem ra lúc sinh thời, Đức
Giêsu không chú trọng lắm đến sứ mệnh truyền giáo phổ quát. Hoạt động của Ngài
giới hạn trong lãnh thổ đất nước Do Thái và giáo huấn của Ngài không có những
lời khuyên chính xác về bổn phận truyền giáo bên ngoài lãnh thổ Do Thái. Dường
như ý thức truyền giáo của các tông đồ chỉ xảy đến khi các ông gắn liền nó với
khám phá ra Đức Kitô của Phục Sinh. Tuy nhiên, điều quan trọng là chúng ta xem
xét sự việc cách kỹ lưỡng hơn để biết được sự liên tục giữa hoạt động của Chúa
Giêsu tại Galilê và rồi sau đó là công cuộc truyền giáo có tính phổ quát của
các môn đệ.
Thật sự, hoạt động của Chúa
Giêsu chỉ hạn hẹp tại Galilê và Giêrusalem và chỉ cho người Do Thái. “Ta chỉ
được sai đến với chiên lạc của dân Israel ” (Mt 15, 24). Đó là một lịch
sử không thể chối cãi được. Tuy nhiên, bên cạnh đó, các thánh sử cũng ghi lại
thái độ rộng mở của Chúa Giêsu đối với người Samarie bị khinh miệt (Lc 17, 12
tt; Ga 4, 1 tt). Ngài vẫn chữa bệnh theo yêu cầu của viên Bách quản (Mt 8,
5-13; Lc 7, 1-10) hoặc người phụ nữ Syrophênicien (Mc 7, 24-30, Mt 15, 21-28).
Trong dụ ngôn sự phán xét cuối cùng (Mt 25, 31 tt), Chúa Giêsu đã không phân
biệt người Do Thái và dân ngoại mà chỉ phân biệt giữa những người yêu mến Đức
Kitô khi tiếp nhận những người nhỏ nhất và những người không thi hành điều đó,
lúc ấy tất cả mọi biên giới quốc gia đều bị bãi bỏ để chỉ còn những người phục
vụ anh em mình. Cuối cùng, cái chết của Ngài trên thập giá là ứng nghiệm lời
tiên tri về Người Tôi Tớ đau khổ đã nói lên tính chất phổ quát của hy tế. Khi
nói về “phục vụ” và “hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người”, “Đổ
máu mình ra để cứu chuộc nhiều người” (Mt 20, 28; 26, 28), Chúa Giêsu đã khẳng
định tính chất phổ quát của hy tế. Chính từ trên đỉnh cao của thập giá mà chân
trời được mở rộng đến tận cùng thế giới.
Đối với Kitô giáo thời sơ khai, ý niệm về truyền giáo rất quan trọng để
làm cho sứ điệp về đời sống của Chúa Giêsu loan truyền khắp thế giới. Thế nhưng,
có sự xung đột với “nhãn quan thế giới” về truyền giáo bởi vì chính Chúa Giêsu
đã nói rằng: “Ta chỉ được sai đến với chiên lạc nhà Israel ” (Mt 15, 24). Khi Ngài tự
giới hạn mình trong khuôn khổ người Do Thái thì không phải Ngài loại bỏ những
dân tộc khác, nhưng là tạo nên một điểm khởi đầu cho sứ mệnh của Ngài. Chúa
Giêsu muốn tạo nên một “hiệu ứng sóng vỗ” khi truyền bá sứ điệp Tin Mừng. Ngài
đã có một nhãn quan rộng lớn hơn cho sứ điệp Tin Mừng nhưng chỉ khởi đầu với
chiên lạc nhà Israel” để từ đó tạo nên một nhóm kế tiếp ra đi và chia sẻ Tin
Mừng. Thật vậy, Chúa Giêsu đã chỉ thị cho các môn đệ “hãy đi khắp thế gian và
rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật” (Mc 16, 15).
“Tóm lại, hoạt động ngắn
ngủi của Chúa Giêsu trên trần thế được giới hạn trong lãnh thổ Do Thái và lúc
còn sống Ngài cũng không giao cho nhóm Mười Hai đi truyền giáo bên ngoài xứ sở.
Ngài dành trọn nỗ lực cho dân Israel .
Thế nhưng lời rao giảng cũng như thái độ của Ngài đã báo trước một nhãn quan
rộng mở. Ngài không chỉ đón nhận hết thảy mọi người đến với Ngài bằng lòng tin
mà còn rộng mở cho dân ngoại được tham dự vào Nước Trời. Ngài luôn nhấn mạnh
đến vai trò ưu tiên của đức tin và ý của Ngài muốn vượt qua chế độ Lề Luật đã
là cánh cửa mở cho dân ngoại… Sau khi hoàn thành hy tế Người Tôi Tớ đau khổ, sự
phục sinh đã là điểm xuất phát hiệu quả của sứ mệnh truyền giáo phổ quát”
Ngay từ khởi thủy Thiên Chúa
Cha đã có ý định cứu độ nhân loại. Đó là một kế hoạch tình yêu, từ đó phát sinh
sứ mạng của Đức Kitô, của Chúa Thánh Thần và của Giáo Hội. Đứng trước kế hoạch
này con người được mời gọi đáp trả bằng sự hoán cải, một sự vượt qua liên tục
từ “cuộc sống theo xác thịt” đến “cuộc sống theo Thần
Khí”. Theo Thông điệp Veritatis
splendor, đời sống luân lý xuất
hiện như sự đáp trả những sáng kiến tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.
Tất cả được thực hiện trong mầu nhiệm Nước Trời do Đức Kitô loan báo và thiết
lập và qua Giáo Hội với sức mạnh của Thánh Thần.
Nét đặc trưng nhất của Nước
Trời hệ tại sự bày tỏ lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa. Chính mạc khải
về Nước Trời đòi hỏi một sự đón nhận trọn vẹn và tin tưởng đối với lời loan báo
của Chúa Giêsu và một sự hoán cải tận căn. Nước Trời đến bằng ân sủng, nhưng
con người không thể đón nhận Nước ấy mà không thay đổi tâm hồn và cách sống (x.
Mt 5, 20). Bài giảng trên núi vốn được coi như bản hiến chương của luân lý Tin
Mừng đã làm nổi bật một cuộc hoán cải như thế. Theo Veritatis Splendor, trong bài giảng trên núi Chúa Giêsu đã kiện
toàn các giới răn của Thiên Chúa, đặc biệt giới răn yêu thương tha nhân, bằng
cách nội tâm hóa và triệt để hóa các đòi hỏi của các giới răn ấy; bài giảng ấy
đã làm cho các giới răn hướng về sự hoàn thiện của tám mối phúc thật. Những đòi
hỏi triệt để này phát xuất từ đức tin và tạo nên sự mới mẻ của Kitô giáo.
Nước Trời mà Chúa Giêsu loan
báo và khai mào phải được triển khai dọc theo chiều dài lịch sử nhân loại bằng
sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội. Động lực sâu xa của sứ vụ này phát xuất
từ lệnh truyền của Đấng Phục Sinh: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan
báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15). Chính lệnh truyền này đã xác
định lý do hiện hữu của Giáo Hội. Chúng
ta có thể bổ túc lệnh truyền trên đây bằng lệnh truyền trong Tin Mừng theo
thánh Matthêô: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm
phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi
điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19-20). Khi liên kết hai hình thức lệnh
truyền này lại với nhau, chúng ta sẽ khám phá ra rằng lệnh truyền ấy chứa đựng
vừa việc loan báo Tin Mừng, vừa việc giảng dạy luân lý.
Mục tiêu của việc truyền
giáo là công bố Tin Mừng và biến đổi con người về phương diện luân lý. Dĩ nhiên
sự biến đổi mang tính hữu thể của con người qua bí tích rửa tội đã được thực
hiện ex opere operato và ngay lập
tức, nhưng sự biến đổi luân lý đòi buộc một sự cộng tác tích cực của con người
và đòi hỏi nhiều thời gian.
Để hiểu được những đòi hỏi luân
lý khác được bao hàm trong mệnh lệnh truyền giáo của Đức Kitô, chúng ta cần
quay trở lại đoạn Tin Mừng theo thánh Matthêô về sứ vụ của nhóm Mười Hai (x. Mt
10,1-16) và đoạn Tin Mừng theo thánh Luca về sứ vụ của bảy mươi hai môn đệ (x.
Lc 10,1-12). Sứ vụ mà Chúa Giêsu giao phó cho các tông đồ và các môn đệ cũng
chính là sứ vụ của Ngài: loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa, chữa lành bệnh tật
và trừ quỉ. Việc loan báo Tin Mừng về Nước Trời, vốn bao hàm sự chữa lành, sự
giải thoát và bình an, cũng đòi hỏi những thái độ luân lý phải có nơi các tông
đồ, như xả thân cách vô vị lợi, tinh thần khó nghèo, tinh thần cộng tác và hiệp
nhất, sự phó thác cho Thiên Chúa, sự dịu dàng và khiêm tốn.
18. Tương quan giữa
luân lý và truyền giáo?
Thông điệp Veritatis Splendor đã dạy: “Việc rao
giảng Tin Mừng bao hàm vừa lời loan báo vừa sự đề xuất luân lý”, điều đó muốn
nói rằng việc đề xuất luân lý cũng góp phần vào việc loan báo Tin Mừng. Việc
rao giảng chân lý về con người và về ý nghĩa cuộc sống bao hàm những đòi hỏi
luân lý, tạo thành một phần căn bản trong mệnh lệnh truyền giáo của Đức Kitô
(x. Mt 28,19-20). Tương quan giữa luân lý và truyền giáo xuất hiện cách rõ ràng
hơn nếu chúng ta xét đến mục đích, các phương tiện và những con đường truyền
giáo.
Mối liên hệ mật thiết giữa
luân lý và truyền giáo được nhìn thấy trước hết nơi mục đích mà công cuộc
truyền giáo hướng đến: đó là sự hoán cải. “Chính Chúa Giêsu, trong khi rao
giảng về Nước Thiên Chúa và về tình yêu cứu độ, đã đưa ra một lời kêu gọi đức
tin và sự hoán cải”. Quả thế, việc loan báo Tin Mừng nhằm mục đích dẫn đưa con
người đến đức tin. Nhưng đức tin sẽ chỉ là không tưởng và vô nghĩa nếu không có
một sự biến đổi con người về phương diện luân lý, không có một sự thay đổi
trong hướng đi của cuộc sống.
Ở đây chúng ta chạm đến một
khái niệm nền tảng về truyền giáo và sự cải hóa. Đối với Giáo Hội, truyền giáo
chính là mang Tin Mừng đến mọi môi trường nhân loại và biến đổi con người từ bên trong. Do đó mục đích của
truyền giáo là sự đổi mới nội tâm và khi loan báo Tin Mừng Giáo Hội cũng tìm
cách cải hóa lương tâm con người, cả cá nhân lẫn tập thể, biến đổi “các tiêu chuẩn phán đoán,
các giá trị quyết định, các điểm quan tâm, các dòng suy tư, các nguồn cảm hứng
và các kiểu sống của nhân loại, tương phản với Lời Chúa và chương trình cứu
độ”.
Đức Gioan Phaolô II, trong thông
điệp Redemptoris Missio, cũng đã
trình bày cách rõ ràng mục đích này của việc truyền giáo: đó là sự hoán cải
hoặc canh tân đức tin và đời sống kitô hữu. Thế nhưng, mọi cuộc hoán cải đều
đòi hỏi một sự đổi mới trên bình diện luân lý, vì thế, theo Veritatis Splendor, việc truyền giáo vừa
rao giảng các chân lý đức tin, vừa trình bày các nền tảng và nội dung của luân
lý Kitô giáo như những qui tắc cần thiết để đổi mới cuộc sống.
Thứ đến, mối liên hệ giữa
luân lý và truyền giáo nằm trong các phương tiện loan báo Tin Mừng. Theo Veritatis Splendor cũng như tất cả các
văn kiện của Giáo Hội về truyền giáo, các phương tiện của việc rao giảng Tin
Mừng là loan báo và làm chứng. Giáo Hội trực tiếp nhấn mạnh đến tầm quan trọng
quyết định của việc loan báo và của chứng từ đức tin sống động trong đời sống
đức ái của các cộng đoàn kitô hữu, trong sự trung thành của họ đối với các giáo
huấn Tin Mừng và trong việc họ cố gắng thực hiện một cuộc “tân Phúc Âm hóa”.
Đây là một thách đố của thời đại chúng ta đang sống, ít ra trong nhiều dân tộc,
và nó được định nghĩa như một “sự loan báo Tin Mừng luôn luôn mới và luôn chứa
đựng sự mới mẻ, một cuộc Phúc Âm hóa phải luôn luôn mới trong sự nhiệt thành,
trong các phương pháp, trong cách diễn tả”. Một sự nhiệt thành trên bình diện
luân lý là điều cần thiết để việc loan báo được hữu hiệu.
Chính vì thế, việc loan báo
Tin Mừng phải đi đôi với việc làm chứng, còn việc làm chứng chuẩn bị và đồng
hành với lời rao giảng, như thông điệp đã khẳng định: việc loan báo Tin Mừng
“cho thấy tính chất đích thực của nó và đồng thời triển khai mọi sức mạnh
truyền giáo của nó khi nó được thực hiện bởi việc trao ban không những lời được
công bố, mà còn lời được sống”. Lý do là vì “nhờ đời sống luân lý, đức tin trở
nên ‘lời tuyên xưng’, không những trước mặt Thiên Chúa, mà còn trước mặt người
đời: đức tin trở thành lời chứng”.
Quả thế, theo Ad Gentes, Evangelii Nuntiandi và Redemptoris
Missio, chứng từ của một cuộc sống mới làm nảy sinh những câu hỏi nơi mọi
người và mở ra một con đường ngày càng rộng cho hoạt động của Chúa Thánh Thần,
và như thế nó đặt ra những tiền đề khiến cho mầu nhiệm Đức Kitô có thể chiếu
sáng rạng ngời. Cũng vậy, theo Veritatis
Splendor, đời sống thánh thiện “là phương thế đơn giản nhất và hấp dẫn
nhất” cho việc truyền giáo.
19.
Giáo luật nói gì về nghĩa vụ truyền giáo của giáo dân?
Giáo
luật điều 225 nói:
(§1) Xét vì các giáo dân, cũng như mọi tín hữu khác,
được Thiên Chúa ủy thác làm việc tông đồ do phép Rửa Tội và phép Thêm Sức, nên
họ có nghĩa vụ tổng quát và có quyền lợi xét như từng cá nhân hoặc kết hợp
thành hiệp hội, phải làm sao để sứ điệp cứu rỗi của Thiên Chúa được mọi người
khắp thế giới biết đến và đón nhận. Nghĩa vụ này lại càng thôi thúc hơn trong
những hoàn cảnh mà chỉ có thể nhờ các giáo dân, người ta mới có thể nghe Phúc
Âm và biết Ðức Kitô.
(§2) Tùy theo điều kiện riêng của từng người, các
giáo dân cũng có bổn phận riêng phải thấm nhập và kiện toàn trật tự trần thế
với tinh thần Phúc Âm; và như vậy họ làm chứng cho Ðức Kitô đặc biệt khi điều hành
các sự việc thế trần cũng như lúc thi hành các chức vụ trên đời.
Truyền giáo là bổn phận
chung của mọi tín hữu được khẳng định đặc biệt dành cho giáo dân. Nền tảng của
bổn phận này được khẳng định qua bí tích rửa tội và thêm sức. Hai mục tiêu của hoạt động truyền giáo này
là: loan báo Tin Mừng đến những ai chưa nghe hoặc chưa chấp nhận Tin Mừng (§1),
và biến đổi trật tự trần thế với tinh thần Tin Mừng (§2). Người giáo dân có vai trò đặc biệt trong sứ
mệnh này bởi vì chỉ nhờ giáo dân mà Tin Mừng được nghe (§1); và qua các hoạt
động trần thế đặc trưng của người giáo dân mà trật tự trần thế được biến đổi
(§2).
• Bổn phận truyền giáo. Cần phải hiểu bổn phận truyền giáo theo nghĩa
rộng như đã được khẳng định ở Giáo luật điều 211: "Tất cả các tín hữu có nghĩa vụ và quyền lợi phải làm
sao cho sứ điệp cứu độ của Thiên Chúa càng ngày càng được truyền tới hết mọi
người, thuộc mọi thời và mọi nơi". Đây không phải là bổn phận chỉ dành
riêng cho những người đã được truyền chức, những người được quyền bính hợp pháp
sai đi hoặc những nhà truyền giáo chuyên nghiệp, mặc dù đây là nhóm người có
tầm quan trọng đặc biệt trong công cuộc truyền giáo (Ad Gentes, các số 23-27).
Đây là bổn phận chung. Nó không đòi buộc hoặc cấm cản giáo dân đi đến những
miền đất xa lạ hoặc trở thành người rao giảng Tin Mừng toàn thời gian tại nơi
mình cư ngụ. Tuy nhiên, những ai chấp nhận việc rao giảng Tin Mừng như thế phải
hiệp thông với các thẩm quyền giáo hội địa phương và luôn tuân theo giáo huấn
của Giáo Hội (Giáo luật, các điều 759, 772, 781-792).
• Biến
đổi trật tự trần thế. Vatican II luôn khẳng định sự độc lập của trật tự
trần thế. Người Kitô hữu phải luôn tôn trọng luật lệ và thẩm quyền của trật tự
trần thế. Tuy nhiên, Giáo Hội cũng được kêu gọi làm biến đổi tội lỗi mà trật tự
trần thế đang bị tiêm nhiễm, với tinh thần Tin Mừng (Apostolicam Actuositatem, số 7; Gaudium
Spes, số 43, etc.). Truyền giáo, đó không phải là « cách mạng hóa » thế
giới, nhưng là « biến đổi » nó. Nhân Ngày Thế Giới Truyền Giáo 24/10/2010, Đức
Bênêđictô XVI đã khẳng định: « Bổn phận truyền giáo không phải là cách mạng hóa
thế giới, nhưng là biến đổi nó, múc lấy sức mạnh của Chúa Giêsu Kitô, Đấng
triệu mời chúng ta đến bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể… ».
20. Truyền giáo "dọc đường" (Mt 10,7)
nghĩa là gì?
Ý
nghĩ phải đi gõ cửa từng nhà hoặc những hành trình xa xôi đã làm cho mọi người
phải ngại ngùng khi nghĩ đến việc truyền giáo. Thế nhưng Chúa Giêsu đã đề nghị
một phương cách truyền giáo dễ dàng mà mọi người có thể làm được khi nói với
các môn đệ: "Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Thiên Chúa đã đến
gần" (Mt 10, 7). Hoặc khi Ngài nói với người bị quỷ ám ở Gêrasa khi anh
bày tỏ ý muốn theo Ngài: "Anh cứ về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ
biết mọi điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương anh như thế nào" (Mc
5, 19). Chúng ta có thể gọi đây là phương pháp truyền giáo "dọc
đường". Và đây cũng chính là phương pháp truyền giáo của Giáo Hội sơ khai:
truyền giáo cho những người thân thuộc, những người mà chúng ta gặp gỡ, giao
tiếp hằng ngày.
21. Tính cánh chung của hoạt động truyền giáo
trong Giáo Hội?
Là
thân thể của Đức Kitô, Giáo Hội biểu trưng cho Đức Kitô và sứ mệnh của Ngài
trong thế giới. Công cuộc truyền giáo của Giáo Hội không phải là sai đi các dân
tộc nhưng là một dân tộc được sai đi để loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa trong
tâm hồn mỗi người. "Vì thế, thời gian hoạt động truyền giáo là thời gian ở
giữa hai lần Chúa đến; và khi Chúa đến lần thứ hai, Giáo Hội ví như mùa gặt
được thu góp vào Nước Chúa từ bốn phương trời. Thực vậy, trước khi Chúa đến, Phúc
Âm phải được rao giảng cho mọi dân tộc" (Ad Gentes, số 9). Đó là tính cánh chung của công cuộc truyền giáo
trong Giáo Hội.
Truyền
giáo được dựa vào Đấng Phục Sinh, là hiện tượng hậu phục sinh. Lệnh truyền
truyền giáo giả thiết sự hiển vinh đã được hoàn tất nơi Đức Kitô, sự lên ngôi
vinh hiển của Ngài trên Nước Trời. Công
cuộc truyền giáo xuất phát từ lệnh truyền của Chúa Phục Sinh và sức mạnh của
Chúa Thánh Thần. Thật vậy, lệnh truyền truyền giáo không phải được ban bố giữa
sự kiện phục sinh và lên trời mà phải được giải thích trong bối cảnh sự vinh
hiển của Đức Kitô trong toàn thể vũ trụ.
22. Tính hiện tại của công cuộc truyền giáo?
Giáo
Hội cần phải cân bằng nhãn quan cánh chung và hiện tại khi thi hành sứ mệnh
truyền giáo. Cần phải có nhãn quan cánh chung bởi vì đến cuối thời gian thì sẽ
có trời mới đất mới mà Dân Thiên Chúa sẽ cư ngụ trong đó (Kh 21, 1 - 22,
5). Nhưng như Chúa Giêsu đã nói, Nước
Thiên Chúa đã được bắt đầu khi Ngài thi hành sứ vụ (Lc 10, 9; 11, 20). Và như
để chứng minh, Ngài đã tuyên bố: "… Nếu tôi dựa vào Thần khí của Thiên
Chúa mà trừ quỷ thì Nước Thiên Chúa đã đến giữa các ông" (Mt 12, 28).
Bởi thế, chiều kích xã hội của sứ mệnh Giáo Hội trong thời gian hiện tại
cũng thật cần thiết vì Nước Thiên Chúa cũng
đã được bắt đầu. Nước Thiên Chúa này mặc dầu có tính cánh chung và không thuộc về thế giới này (Jn 18:36),
nhưng cũng ở trong thế giới
này và là một sức mạnh của sự công bình và hòa bình, của tự do và tôn trọng
nhân phẩm của mỗi người trong lịch sử của thế giới này. Giáo Hội mong muốn biến
đổi thế giới qua việc loan báo Tin Mừng của tình yêu.
TÓM
TẮT
Tháng 4 (số 1-4)
Theo thường lệ của Giáo Hội
Công Giáo Rôma, người ta lấy những chữ đầu để đặt tên cho các tài liệu. "Ad Gentes" là những chữ đầu của Sắc
lệnh về hoạt động truyền giáo của Giáo Hội, có nghĩa là "đến với muôn dân". Sắc lệnh được
thông qua với 2.394 phiếu thuận và 5 phiếu chống, và được Đức Giáo Hoàng Phaolô
VI ban hành ngày 7 tháng 12 năm 1965.
Có thể tóm tắt sứ mệnh
truyền giáo của Kitô hữu bằng 3 từ Hy Lạp là kerygma, diakonia và koinonia.
Kerygma (loan báo Tin Mừng đầu tiên), có nghĩa là chia sẻ Tin Mừng về
Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta "lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận
tiện" (2 Tm 4, 2) - Đây là hành động vì Đức Tin. Diakonia (phục
vụ), có nghĩa là giúp đỡ tất cả những ai đang chịu đau khổ và cần giúp đỡ - Đây
là hành động vì đức Ái. Koinonia (hiệp thông), có nghĩa là quy tụ mọi
người lại trong cùng một đức tin để cùng hưởng nếm sự hòa bình của Nước Trời
vào cuối thời gian - Đây là hành động
của đức Cậy.
Tháng 5 (5-7)
Giáo Hội được gọi là "bí
tích phổ quát của ơn cứu độ". Từ "bí tích" ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, muốn nói lên rằng
Giáo Hội là phương tiện do Thiên Chúa thiết lập để ban ân sủng cho tất cả mọi
người. Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo,
theo tư tưởng Thần Học Kitô giáo có từ thời các thánh giáo phụ, cũng khẳng định
rằng Giáo Hội Công Giáo là "bí tích
phổ quát của ơn cứu độ" (các số 774–776), và xác quyết rằng: "Nơi trần gian này, Giáo Hội là bí tích ơn
cứu độ, là dấu hiệu và dụng cụ của mối hiệp thông giữa Thiên Chúa và người ta"
(số 780). Và vì Giáo Hội là phương tiện để Thiên Chúa ban ân sủng nên không có
ơn cứu rỗi ngoài Giáo Hội Công Giáo. Tuy nhiên, cần phải hiểu giáo huấn này
theo như Giáo Hội hiểu.
Công đồng Vatican II (Lumen gentium, số 16) nói: "Những
kẻ vô tình không nhận biết Phúc Âm của Chúa Kitô và Giáo Hội Người, nhưng nếu
thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa, và dưới tác động của ơn thánh, họ cố gắng chu
toàn Thánh Ý Thiên Chúa trong công việc mình theo sự hướng dẫn của lương tâm,
thì họ có thể được cứu rỗi". Đức Piô XII cũng nói rằng (Mystici Corporis Christi) một người có
thể "thuộc về Giáo Hội bằng một ý muốn hoặc ước ao nào đó mà họ chưa nhận
biết được", nghĩa là cách chung chung họ có ý muốn làm theo ý của Thiên
Chúa.
Tháng 6 (số 8-11)
Vì bản tính công giáo (phổ
quát) của mình và lệnh truyền của Chúa Giêsu cũng như theo gương các thánh Tông
Đồ, Giáo Hội có bổn phận phải loan báo Tin Mừng cho mọi người và thành lập cộng
đồng tín hữu ở khắp nơi để Lời Chúa được phổ biến và tôn vinh (2 Tx 3, 1).
Thứ đến, chúng
ta cũng như Thánh Phaolô, “được ân sủng là để rao giảng cho Dân Ngoại các kho
tàng khôn lường của Chúa Kitô” (Eph 3, 8). Sự sống mới trong Chúa Kitô là một
“Tin Mừng” cho con người nam nữ ở mọi thời đại: tất cả mọi người được kêu gọi
đến sự sống mới này và được ấn định để thừa hưởng sự sống ấy. Đó là lý do tại
sao việc truyền giáo của Giáo Hội phát xuất chẳng những từ lệnh Chúa truyền, mà
còn từ những đòi hỏi sâu xa nơi sự sống của Thiên Chúa ở trong chúng ta nữa. Những
ai được tháp nhập vào Giáo Hội Công Giáo phải cảm nhận được đặc ân này, và
chính vì lý do đó, họ càng buộc phải làm chứng cho đức tin cũng như cho đời
sống Kitô giáo, như là một việc phục vụ anh chị em của mình và như là một
đáp ứng tương xứng với Thiên Chúa. (Redemptoris Missio, số 11)
Tháng 7 (số 12-14)
Giáo Hội Á Châu nhận ra rằng để tồn tại mình phải
hòa nhập vào trong cái đa dạng và đa nguyên ở đây, chia sẻ đời sống với đồng
bào và phục vụ cho sự sống, như Đức Giêsu đã làm. Thần học truyền giáo của Liên
hiệp các Hội Đồng Giám Mục Á Châu (Federation of Asian Bishops' Conferences
- FABC) không bắt đầu từ phía trên hay từ trung tâm, nhưng là từ phía dưới
và từ ngoài rìa, di chuyển về trung tâm. Đối với FABC, truyền giáo và việc loan
báo Tin Mừng không phải là một ‘con đường một chiều’, một ‘sự rao giảng một
chiều’ về những nguyên tắc tín lý hay những chân lý đức tin trừu tượng. Vì vậy,
khi xây dựng phương thức missio inter gentes để truyền giáo tại Á Châu,
FABC bắt đầu không phải với những ý niệm và phạm trù thần học trừu tượng phổ
quát, nhưng với những kinh nghiệm đời sống và những thách đố khác nổi lên từ
cuộc gặp gỡ đang diễn ra với các thực tại hiện nay của Á Châu và với những bối
cảnh đặc thù Á Châu. Đối với FABC, truyền giáo là một cái gì lớn rộng hơn việc
trồng một Giáo Hội địa phương mới ở nơi mà nó chưa hiện diện. Các giám
mục Á Châu không coi các dân tộc Á Châu như những đối tượng của truyền giáo,
theo nghĩa là phải được giúp cải giáo và đưa vào Giáo Hội, mặc dù các Kitô hữu
sẵn sàng mời gọi họ như thế. Đúng hơn, tiêu điểm của sứ mạng inter gentes của
các Giáo Hội địa phương Á Châu được đồng hóa với chính tiêu điểm của sứ mạng
Đức Giêsu: đem Nước Thiên Chúa đến giữa đồng bào mình.
Tháng
8 (số 15-16)
Lúc sinh thời, Đức
Giêsu không chú trọng lắm đến sứ mệnh truyền giáo phổ quát. Hoạt động của Ngài
giới hạn trong lãnh thổ đất nước Do Thái và giáo huấn của Ngài không có những
lời khuyên chính xác về bổn phận truyền giáo bên ngoài lãnh thổ Do Thái. Thật
sự, hoạt động của Chúa Giêsu chỉ hạn hẹp tại Galilê và Giêrusalem và chỉ cho
người Do Thái. “Ta chỉ được sai đến với chiên lạc của dân Israel ” (Mt 15,
24). Đó là một lịch sử không thể chối cãi được. Tuy nhiên, bên cạnh đó, các
thánh sử cũng ghi lại thái độ rộng mở của Chúa Giêsu đối với người Samarie bị khinh
miệt (Lc 17, 12 tt; Ga 4, 1 tt). Ngài vẫn chữa bệnh theo yêu cầu của viên Bách
quản (Mt 8, 5-13; Lc 7, 1-10) hoặc người phụ nữ Syrophênicien (Mc 7, 24-30, Mt
15, 21-28). Trong dụ ngôn sự phán xét cuối cùng (Mt 25, 31 tt), Chúa Giêsu đã
không phân biệt người Do Thái và dân ngoại mà chỉ phân biệt giữa những người
yêu mến Đức Kitô khi tiếp nhận những người nhỏ nhất và những người không thi
hành điều đó, lúc ấy tất cả mọi biên giới quốc gia đều bị bãi bỏ để chỉ còn
những người phục vụ anh em mình.
Khi Ngài tự giới hạn mình trong khuôn khổ người Do Thái thì không phải
Ngài loại bỏ những dân tộc khác, nhưng là tạo nên một điểm khởi đầu cho sứ mệnh
của Ngài. Ngài đã có một nhãn quan rộng lớn hơn cho sứ điệp Tin Mừng nhưng chỉ
khởi đầu với chiên lạc nhà Israel” để từ đó tạo nên một nhóm kế tiếp ra đi và
chia sẻ Tin Mừng. Thật vậy, Chúa Giêsu đã chỉ thị cho các môn đệ “hãy đi khắp
thế gian và rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật” (Mc 16, 15). Tóm lại, hoạt động
ngắn ngủi của Chúa Giêsu trên trần thế được giới hạn trong lãnh thổ Do Thái và
lúc còn sống Ngài cũng không giao cho nhóm Mười Hai đi truyền giáo bên ngoài xứ
sở. Ngài dành trọn nỗ lực cho dân Israel . Thế nhưng lời rao giảng
cũng như thái độ của Ngài đã báo trước một nhãn quan rộng mở. Ngài không chỉ
đón nhận hết thảy mọi người đến với Ngài bằng lòng tin mà còn rộng mở cho dân
ngoại được tham dự vào Nước Trời.
Tháng
9 (số 17-18)
Thông điệp Veritatis Splendor đã dạy: “Việc rao
giảng Tin Mừng bao hàm vừa lời loan báo vừa sự đề xuất luân lý”, điều đó muốn
nói rằng việc đề xuất luân lý cũng góp phần vào việc loan báo Tin Mừng. Việc
rao giảng chân lý về con người và về ý nghĩa cuộc sống bao hàm những đòi hỏi
luân lý, tạo thành một phần căn bản trong mệnh lệnh truyền giáo của Đức Kitô
(x. Mt 28,19-20). Tương quan giữa luân lý và truyền giáo xuất hiện cách rõ ràng
hơn nếu chúng ta xét đến mục đích, các phương tiện và những con đường truyền
giáo.
Mối liên hệ mật thiết giữa
luân lý và truyền giáo được nhìn thấy trước hết nơi mục đích mà công cuộc
truyền giáo hướng đến: đó là sự hoán cải. Việc loan báo Tin Mừng nhằm mục đích
dẫn đưa con người đến đức tin. Nhưng đức tin sẽ chỉ là không tưởng và vô nghĩa
nếu không có một sự biến đổi con người về phương diện luân lý, không có một sự
thay đổi trong hướng đi của cuộc sống. Thứ đến, mối liên hệ giữa luân lý và
truyền giáo nằm trong các phương tiện loan báo Tin Mừng. Theo Veritatis Splendor cũng như tất cả các
văn kiện của Giáo Hội về truyền giáo, các phương tiện của việc rao giảng Tin
Mừng là loan báo và làm chứng. Việc loan báo Tin Mừng “cho thấy tính chất đích
thực của nó và đồng thời triển khai mọi sức mạnh truyền giáo của nó khi nó được
thực hiện bởi việc trao ban không những lời được công bố, mà còn lời được
sống”. Lý do là vì “nhờ đời sống luân lý, đức tin trở nên ‘lời tuyên xưng’,
không những trước mặt Thiên Chúa, mà còn trước mặt người đời: đức tin trở thành
lời chứng”. Theo Veritatis Splendor,
đời sống thánh thiện “là phương thế đơn giản nhất và hấp dẫn nhất” cho việc
truyền giáo.
Tháng
10 (số 19-20)
Ý nghĩ phải đi
gõ cửa từng nhà hoặc những hành trình xa xôi đã làm cho mọi người phải ngại
ngùng khi nghĩ đến việc truyền giáo. Thế nhưng Chúa Giêsu đã đề nghị một phương
cách truyền giáo dễ dàng mà mọi người có thể làm được khi nói với các môn đệ:
"Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Thiên Chúa đã đến gần" (Mt 10,
7). Hoặc khi Ngài nói với người bị quỷ ám ở Gêrasa khi anh bày tỏ ý muốn theo
Ngài: "Anh cứ về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa
đã làm cho anh, và Người đã thương anh như thế nào" (Mc 5, 19). Chúng ta
có thể gọi đây là phương pháp truyền giáo "dọc đường". Và đây cũng
chính là phương pháp truyền giáo của Giáo Hội sơ khai: truyền giáo cho những
người thân thuộc, những người mà chúng ta gặp gỡ, giao tiếp hằng ngày.
Tháng 11 (số 21-22)
Giáo
Hội cần phải cân bằng nhãn quan cánh chung và hiện tại khi thi hành sứ mệnh
truyền giáo. Cần phải có nhãn quan cánh chung bởi vì đến cuối thời gian thì sẽ
có trời mới đất mới mà Dân Thiên Chúa sẽ cư ngụ trong đó (Kh 21, 1 - 22, 5). Nhưng như Chúa Giêsu đã nói, Nước Thiên Chúa
đã được bắt đầu khi Ngài thi hành sứ vụ (Lc 10, 9; 11, 20). Và như để chứng
minh, Ngài đã tuyên bố: "… Nếu tôi dựa vào Thần khí của Thiên Chúa mà trừ
quỷ thì Nước Thiên Chúa đã đến giữa các ông" (Mt 12, 28).
Bởi thế, chiều kích xã hội của sứ mệnh Giáo Hội trong thời gian hiện tại
cũng thật cần thiết vì Nước Thiên Chúa cũng
đã được bắt đầu. Nước Thiên Chúa này mặc dầu có tính cánh chung và không thuộc về thế giới này (Jn 18:36),
nhưng cũng ở trong thế giới
này và là một sức mạnh của sự công bình và hòa bình, của tự do và tôn trọng
nhân phẩm của mỗi người trong lịch sử của thế giới này. Giáo Hội mong muốn biến
đổi thế giới qua việc loan báo Tin Mừng của tình yêu.
Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính
[1] Phần này
trích (có sửa đổi) theo Lm. Lê
Công Đức, Dẫn vào sứ mạng học, xem
http://xuanbichvietnam.wordpress.com/2009/10/31/dan-vao-su-mang-hoc
[2] Số 15 & 16 trích từ Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính, "Truyền
giáo: nền tảng Kinh Thánh và Thần Học", trong Truyền giáo, từ missio Dei đến Missiones Ecclesiae, TGM Qui Nhơn,
2011, tr. 18, 23-24.
[3] Các số 17 & 18 trích từ Gm. Matthêô Nguyễn Văn Khôi, "Luân lý
và truyền giáo theo Thông điệp "Veritatis Splendor" của Đức Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II", trong Truyền
giáo, từ missio Dei đến Missiones Ecclesiae, TGM Qui Nhơn, 2011, tr. 44-45,
52-53.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét