NHÌN VỀ NGUỒN CỘI HƯỚNG TỚI TƯƠNG LAI
Phêrô Lê Hoàng Vinh
Một đứa trẻ có trí khôn, nó nhận ra mình là đứa con nuôi đã được cha mẹ đón về từ cô nhi viện. Cho dù nó được chiều chuộng yêu thương nhưng nơi sâu thẳm nó vẫn canh cánh trong lòng ai là cha mẹ đẻ của mình. Có thể nói, từ khi con người hiện hữu thì vấn nạn về nguồn gốc của con người của vũ trụ đã được đặt ra. Tất cả mọi người đều mang trong mình một nỗi băn khoăn tìm về cội nguồn sự sống.
Những suy tư nghiêm túc, những nhà khảo cổ truy tìm về chứng tích lịch sử về vấn nạn này, đã hao tốn bao công sức tiền của, bao giấy mực. Trong phạm vi cảm nhận riêng tư từ chuyến du khảo thực tế tại các giáo xứ đã bị mai một trong vùng bắc Bình Định, người viết chỉ xin nói lên những cảm tưởng bộc phát vô cùng nhỏ bé, mong rằng dẫu cho tốn thêm chút giấy mực nữa thì cũng không phí phạm, với hy vọng công việc nhìn về nguồn cội của giáo phận Qui Nhơn để hướng tới tương lai vẫn chưa kết thúc. Hành trình ấy còn dịu vợi vô cùng đang mong đợi nơi mỗi kitô hữu của giáo phận, khám phá mỗi ngày trên hành trình đức tin.Một vài điểm nhấn trong lịch sử truyền giáo
Trong Tin mừng ta thấy, ngoài nhóm mười hai còn có các môn đệ và một số phụ nữ theo Chúa Giêsu cũng chỉ vì tin. Nhờ tin: “Đam đông tìm Người, đến tận nơi Người đã đến, và muốn giữ Người lại, kẻo Người bỏ họ mà đi”. Nhưng Người nói với họ: “Tôi còn phải loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì Tôi được sai đến cốt để làm việc đó” (Lc 4,42-43). Đồng thời Chúa Giêsu đã từng nói lên thân phận rong ruổi trên đường của Ngài: “Con chồn có hang, con chim có tổ, còn Con Người không có chỗ gối đầu (Lc 9,58). Điều đó ta thấy “những người theo Chúa cùng chung số phận như vậy” (Lc 8,1-3). Sau khi Chúa Giêsu lên trời, các Tông Đồ và môn đệ cùng các phụ nữ đã qui tụ lại chung quanh Đức Maria, trong phòng tiệc ly để cầu nguyện và chờ đợi biến cố trọng đại Chúa đã hứa trong ngày lễ Ngũ Tuần (Cv 1,12-2,4) chính trong ngày này mà đã khai sinh ra Hội Thánh và các Tông đồ đã đón nhận ba ngàn người (Cv 2,41), hình thành cộng đoàn tín hữu đầu tiên: các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung. Nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các Tông đồ làm chứng Chúa Giêsu đã sống lại.
Theo dòng lịch sư Giáo hội, khi Vua Hêrôđê phá hoại Hội Thánh, các tín hữu đi khắp nơi và loan báo Tin mừng. Phó tế Philipphê xuống thành miền Samari (Cv 8,1-17). Nhiều người phải trốn tránh ra ngoài biên giới. Đi đến đâu, trước tiên họ giảng cho người Do Thái, khi đến Antiôkhia họ cũng rao giảng cho cả người Hilạp và số đông người đã tin vào Chúa. Cũng từ Antiôkhia mà hai thánh Phaolô và Barnaba phát xuất các cuộc hành trình truyền giáo cho dân ngoại (Cv12,2). Đi đến đâu, các Tông đồ thiết lập Hội Thánh ở đó và tìm người cộng tác đặt tại địa phương để cũng cố đức tin. Các giáo đoàn thời các Tông đồ đều đặt ở các thành phố, nằm trên các trục lộ giao thông thuận lợi, chẳng hạn như Côrintô, Galata, Ephêsô, Côlôsê… nhưng cơ sở không không cố định, thường là nhà các giáo hữu. Khi Giêrusalem bị phá đổ năm 70, các tín hữu di tản khắp để quốc Rôma mang Tin mừng gieo hạt khắp nơi. Đến khoan giữa thế kỷ thứ III, nhiều trung tâm kitô giáo đã hình thành như Antiôkia, Rôma, Alexandria Milan, Đamasco …
Vào thời kỳ bách hại có một cộng đoàn được hình thành, dưới sự chăn dắt của một chủ chăn, các cộng đoàn này nằm ở trung tâm thành phố. Trong ý nghĩa này mà từ thế kỷ thứ II cộng đoàn địa phương gọi là “paroikia”, về sau nó mang ý nghĩa là những cộng đoàn tín hữu biệt lập, riêng rẻ trong lòng giáo hội rộng lớn của dân Thiên Chua. Đến thế kỷ thứ IV thuật ngữ paroikia là từ mà giáo hội dùng để chỉ cộng đoàn địa phương là giáo xứ. Dọc theo hành trình lịch sử giáo hội, kể từ thế kỷ XVI các nhà truyền giáo theo chân các nhà thám hiểm Châu Au, nhất là Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, đi rao giảng Tin mừng cho những vùng đất mới ở Châu Mỹ, Châu Phi, Châu Á … các giáo hội non trẻ này được bắt rễ và mang lấy hình mẫu của các giáo xứ Phương Tây.
Theo chân các Tông Đồ, nửa cuối thế kỷ XVI các nhà truyền giáo đặt bước chân đầu tiên lên đất Việt để đáp lại lời kêu gọi của Đức Giê-su “Anh em hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho muôn dân” (Mc 16,15). Đây là một lệnh truyền quan trọng của Đức Giê-su đã ủy thác cho con người thực hiện. Lệnh truyền này đã được duy trì và phát triển cho tới ngày nay, bất chấp mọi khó khăn, trở ngại và bách hại qua các thời kỳ lịch sử. Qua bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, các ngài cũng như mỗi người chúng ta có nhiệm vụ mang Tin mừng Phục Sinh đến cho tất cả mọi người. Đây là một sứ vụ thiết yếu của của giáo phận Qui Nhơn và của mọi kitô hữu, không phân biệt tuổi tác, phái tính, chức bật … đều được mời gọi loan báo Tin mừng, đem Chúa đến cho muôn dân (x. Mt 28,18-20). Trong tâm tình chuẩn bị mừng 50 ngày thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam và 400 năm Tin Mừng đến với giáo phận Qui Nhơn thì việc truyền giáo và tái truyền giáo còn là một công tác cụ thể đòi hỏi nhiều trăn trở suy tư thích ứng, phù hợp với hoàn cảnh địa phương. Người loan báo Tin Mừng phải là con người chứng nhân của Đức Kitô-phản ảnh Đức Kitô. Sau đây ta cùng nhau nhìn lại những chứng nhân của Đức Kitô đã từng một thời cai quản giáo phận:
Giáo phận Qui Nhơn thuộc giáo phận Đàng Trong từ năm 1659-1679, thời kỳ này dưới sự cai quản của Đức Cha Pierre Lambert de la Motte (1659-1679). Kể từ năm 1679 đến năm 1840 thuộc giáo phận Bắc Đàng Trong, thời kỳ này dưới sự cai quản của các Đức Giám mục:
Guillaume Mahot (1682-1684)
Francois Perez (1684-1723)
Alexandre de Alexandris (1723-1743)
Armande Lefebvre (1743-1760)
Guillaume Piguel (1854-1771)
Pierre Pigneau de Béhaine (1771-1799)
Jean Labartette (1791-1823)
Jean Baptiste Taberd (1827-1840)
Kể từ năm 1840 giáo phận Bắc Đàng Trong mang địa danh Qui Nhơn, dưới sự cai quản của các Giám Mục:
St. Etienne Théodore Cuénot Thể (1840-1851)
Eugène Charbonnier Trí (1864-1873)
Louis Galibert Lợi (1873-1883)
Gamelbecke Hân (1884-1901)
Damien Grangeon Mẫn (1902-1930)
Augustin Tardieu Phú (1930-1942)
Marcel Piquet Lợi (1944-1957)
Phêrô Maria Phạm Ngoc Chi (1957-1963)
Ngày 21-11-1960 giáo phận Qui Nhơn được chính thức thiết lập dưới thời của Đức Cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi. Sau ngài có các vị chủ chăn như: Đaminh Hoàng Văn Đoàn (1963-1974), Phaolô Huỳnh Đông Các (1974-1999), Phêrô Nguyễn Soạn (1999 đến nay) vẫn tiếp tục chèo lái con thuyền giáo phận trên lữ hành đức tin.
Hành trình về nguồn
Sau những ngày tập trung học hỏi về lịch sử, đường hướng mục vụ, cũng như nhận biết những thao thức chung của giáo phận về hành trình tái truyền giáo và truyền giáo. Dưới sự hướng dẫn của cha quản lý, anh em được tận mắt chứng thực những giáo điểm như: Hà Ra, nơi bắt đạo đầu tiên của phong trào Văn Thân. Dọc tỉnh lộ ven biển, tiếp tục anh em được đi lại tuyến đường mà chính các thừa sai đã từng đặt chân đến để tiến về cửa Kim Bồng, nơi các giáo hữu đã đón “Giám Mục Tông Toà” đầu tiên bằng sự tĩnh lặng. Tiếp theo đoàn dừng chân tại cửa Ty Phu (Tà Phù), men theo cửa sông này Tin Mừng được loan báo đến Gia Hựu, giáo xứ một thời hùng thịnh, nay chỉ còn nền nhà thờ và hang đá Đức Mẹ phủ đầy rong rêu, cây dại.
Rời Gia Hựu đoàn tiếp tục viếng thăm Gia Chiểu, Đồng Quả, Đồng Hâu. Trên đường trở về, đoàn ghé thăm Hội Đức, Nhà Đá, chủng viện Đại An. Tuy các cơ sở này đang trong tình trạng hoang tan, nhưng theo lời của cha Quản Lý, các cơ sở này đang trong tiến trình tái thiết lại. Hy vọng nơi đây là giáo điểm khởi đầu cho công việc tái truyền giáo và truyền giáo của giáo phận mà người tông đồ theo Chúa cần phải đón nhận và phát triển. Rời Đại An, kết thúc một cuộc hành trình về nguồn mang nhiều ý nghĩa, đồng thời cũng khơi lên và ấn ký bầu nhiệt huyết tông đồ nơi mỗi người. Dẫu rằng việc tái thiết những giáo xứ bị mai một không dễ dàng. Nhưng với thao thức tái truyền giáo và truyền giáo, tin rằng đơi sống đức tin nơi mỗi người luôn bừng cháy những khát vọng, để rồi mỗi người sẽ góp phần làm cho căn tính của Giáo phận Quy Nhơn được rõ nét hơn trong tương lai.
Suy nghĩ về sứ vụ tái truyền giáo và truyền giáo tại giáo phận.
Đứng trước ngưỡng cửa chuẩn bị mừng 400 năm Tin Mừng đến giáo phận Qui Nhơn. Với những biến đổi của xã hội, ắc hẳn nơi những ai có chung niềm thao thức tái thiết lại các giáo điểm truyền giáo ngày xưa cũng như van đề truyền giáo trong xã hội hôm nay, không khỏi lo âu về đời sống đức tin của các tín hữu, đàng khác chính họ cũng phải chu toàn sứ vụ mang Lời Chúa ban phát cho mọi người. Lịch sử cứu độ cho thấy, Hội thánh tồn tại đến ngày nay là nhờ việc loan báo Tin Mừng: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ …” (Mt 28,19). Nói cách khác, muốn duy trì đời sống đức tin của mọi tín hữu trong giáo phận, thì cần phải duy trì đời sống và sứ vụ của người môn đệ Chúa, phải biết sống điều mình rao giảng giữa đời thường. Tuy nhiên, điều ấy không chỉ dừng lại ở các linh mục, tu sĩ mà còn đòi hỏi sự nổ lực, cố gắng của mọi thành phần dân Chúa trong giáo phận. Thiết nghĩ đó là con đường hữu hiệu để Lời Chúa được loan truyền. Trước đây, dân Israel đã từng thưa với Thiên Chúa rằng: “Tất cả những gì Thiên Chúa đã phán thì chúng tôi thi hành và tuân theo “. Trong thực trạng hom nay, chúng ta sẽ nghĩ gì về sứ vụ truyền giáo và tái truyền giáo tại giáo phận của mình?
Khi đi rao giảng, Chúa Giêsu cũng mời gọi những ai đi theo Người thì hãy sống tinh thần của người môn đệ, nghe và thực hành điều Người truyền dạy. Chúa Giêsu cũng đã từng nói với các môn đệ: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít “ (Mt 9,37). Thực tế cho thấy, nhiều người kitô hữu mang cái “mác” đạo gốc, đạo dòng nhưng không biết đến kinh lễ, con cháu họ chẳng khi nào đón nhận được Lời Chúa, hơn nữa cũng có những người chỉ biết giữ đạo chứ không sống đạo. Đứng trước nguy kịch này thử hỏi giáo phận làm sao có những thợ gặt lành nghề cho Nước Chúa. Vì thế, vấn đề tái truyền giáo hoặc truyền giáo mang tính phổ quát cho mọi thành phần dân Chúa trong giáo phận. Người viết thiết nghĩ để lôi kéo họ tìm về ánh sáng Chúa Kitô thì cần phải có những trái tim biết cho đi, biết ký thác đường đời cho Chúa giữa lòng xã hội hôm nay.
Nhờ phép Rửa, mọi tín hữu đều tham dự vào đời sống đức tin của Hội thánh, nhờ ân sủng Lời Chúa, họ được mời gọi loan báo Tin Mừng trong đời sống thường ngày trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Khi sống, họ tương quan với người khác, làm việc trong nhiều môi trường khác nhau, tiếp xúc đủ mọi thành phần trong xã hội. Đây là môi trường thuận lợi cho rao giảng và thể hiện chứng nhân Tin mừng giư đời. Nếu một tín hữu biết thể hiện căn tính của mình qua lối sống ngay thẳng, chân thật, quảng đại và bác ái thì chính họ đã thánh hoá môi trường họ đang sống. Hơn nữa, trong thời đại hôm nay, “con người thích chứng nhân hơn thầy dạy”. Chứng nhân cần phải thể hiện bằng những hành động và việc làm cụ thể. Chính nhờ Lời hằng sống của Chúa Kitô, cuộc sống giữa đời của người tín hữu được thăng hoa hơn khi họ biết đón nhận, nối kết đời sống đức tin và tuyên xưng đức tin thành một thể duy nhất.
Thiết nghĩ người tông đồ Chúa Kitô mang lại ánh sáng Phục Sinh cho những người đã từng là kitô hữu thì dễ, nhưng làm cách nào mang Tin mừng cho con cháu họ quả that không đơn giản chút nào? Những lý do cản trở việc loan báo Tin mừng tiên vàng thuộc văn hoá thời đại do chủ nghĩa thực dụng và thế tục hoá mang lại. Người ta thích hưởng thụ hơn tìm kiếm, thích giá trị vật chất hơn giá trị siêu nhiên. Não trạng ấy phần nào hình thành trong chính nhân cách họ và bất chấp luân thường đạo lý. Xã hội hôm nay dường như người trẻ ít lui tới nhà thờ, huống chi là học hỏi Lời Chúa và sống Lời Chúa. Cho nên việc loan báo Tin mừng còn gặp nhiều trở ngại về nhân sự. Mặc khác, chúng ta khó có thể loan báo Tin mừng đến những vùng đất khó khăn về giao thoa văn hoá, dân tộc ít người. Thậm chí có những địa phương ta không thể đặt chân đến được vì bị cấm chế gay gắt, hoặc đôi lúc việc dịch thuật xuất bản Kinh Thánh theo tiếng các dân tộc thiểu số bị hạn chế, thứ đến là việc hội nhập văn hoá vào các địa phương gặp nhiều khó khăn. Điều đó cho thay, không có cơ hội tiếp xúc thì làm sao giúp họ nhận biết Chúa Kitô.
Con người ngày nay thích sống với những gì trước mắt, tức thời, họ không chấp nhận bất cứ sự đợi chờ nào. Khi có dịp đi đây đó, ắc hẳn chúng ta cũng nhận thức được sự hưởng thụ của con người không còn danh riêng cho một nhóm đối tượng nào cả. Đời sống hưởng thụ nó đã thâm nhập sâu vào chính cuộc sống của họ, thích theo model để phù hợp với thực tại, thích chứng tỏ mình không phải là “hai lúa”. Đối với người có tiền của, cách thức hưởng thụ theo kiểu con nhà giàu, đối với những người ít tiền hơn thì có cách thức hưởng thụ của riêng họ. Người trẻ hôm nay phần nào cũng bị cuống hút vào dòng chảy này, họ luôn khẳng định mình bằng chính lối sống, thậm chí còn đánh mất bản thân, bỏ qua các giá trị chuẩn mực đạo đức cũng chỉ vì “hưởng thụ “
Trên hành trình loan báo Tin Mừng, giáo phận cũng đã từng đối mặt với những khó khăn về nhiều phương diện. Cho đến hôm nay vẫn còn gặp nhiều khó khăn nhưng giáo phận Qui Nhơn của Chúa vẫn vững bước trên hành trình đức tin. Đối diện với những khó khăn trên, người chiến sĩ Chúa Kitô không những không lùi bước, nhưng cần phải tiến gần hơn, len lõi vào giữa họ bằng chính cuộc sống chứng nhân nhằm có thể mang đến cho họ ánh sáng và niềm vui cho những con người đang khắc khỏi tìm kiếm đường về với sự thật và sự sống.
Công việc tái truyền giáo và truyền giáo là thao thức chung của mỗi thành phần dân Chúa, mặt khác cũng tuỳ thuộc vào những sáng kiến, nổ lực của mỗi người môn đệ Chúa Kitô và của mỗi người tín hữu. Ta thấy, công việc truyền giáo của Giáo hội sơ khai tuỳ thuộc vào công việc của các tông đồ cũng như có sự đóng góp sức sống mạnh mẽ của các cộng đoàn tín hữu để chinh phục lương dân, thì vai trò hoạt động của giáo phận chúng ta và các tín hữu cũng quan trọng như vậy. Nhìn vào lịch sử giáo phận, chúng ta đã từng chứng kiến sức sống mãnh liệt của giáo dân trong quá khứ, tuy rằng, hôm nay không còn được vàng son như thuở ban đầu nhưng đức tin vẫn được duy trì và phát triển ở các cộng đoàn giáo xứ. Các gia đình công giáo nơi có cha mẹ đạo đức nhiệt thành, các hội đoàn hoạt động đoàn kết mạnh mẽ… Với ưu điểm của giáo phận có những nhân chứng tư đạo của những thời kỳ bắt đạo trong quá khứ như Anrê Phú Yên, Anrê Kim Thông. Thế nhưng theo số liệu thống kê của giáo phận năm 2006 cho thấy dân số của ba tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên là 3.718.728, số tín hữu nhan biết Chúa chỉ có 68.008 người.
Với những thách đố này khiến cho mỗi người chúng ta suy nghĩ về sứ mạng cốt yếu của mình và tìm kiếm những chân dung đích thực của những chứng nhân. Vì thế cần phải có những hoạt động tương trợ, bác ái, cũng như bên vực người nghèo, cần thúc đẩy những lĩnh vực xã hội có những tiếng nói chân thành và thẳng thắng nhằm mưu cầu lợi ích cho mọi người. Nhiệm vụ của các chủ chăn là đảm bảo cho giáo dân đươc huấn luyện làm các nhà truyền bá Tin Mừng, có khả năng đương đầu với những thách đố của xã hội ngày nay, không chỉ bằng sự khôn ngoan mà bằng con tim đã được Chúa Kitô đổi mới. Trong lúc làm chứng cho Tin mừng ở mọi lĩnh vực trong xã hội bằng chính cuộc sống, người tín hữu có thể tiếp cận với những bất công đàn áp. Muốn vậy, thiết nghĩ giáo phận cần thành lập hoặc mở các khóa huấn luyện đào tạo giáo dân, chuẩn bị cho họ làm cộng việc truyền giáo trong xã hội hôm nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét