Mỗi ngày một danh ngôn

Chủ Nhật, 5 tháng 8, 2012

Gặp gỡ chủng sinh mùa hè 2012

Như thường lệ, năm nay các chủng sinh cũng có dịp gặp gỡ chung vào mùa hè. Cùng hòa chung trong sinh hoạt của giáo phận, chủ đề gặp gỡ năm nay là sám hối và thanh tẩy.
Chủ đề được khai triển theo nhiều khía cạnh khác nhau do Đức cha giáo phận, cha Tổng Đại Diện, cha giám đốc Chủng viện và một số cha giáo.
Các chủng sinh đã dành nhiều giờ để học hỏi và thảo luận.
Sau cuộc gặp gỡ, mỗi chủng sinh sẽ có viết bài thu hoạch.
Sau đây xin giới thiệu bài tổng hợp các giờ thảo luận do Ban thư ký tổng kết.




CUỘC GẶP GỠ CHỦNG SINH

 MÙA HÈ 2012


Nối dài việc đào tạo và tự đào tạo cho các chủng sinh về 4 chiều kích: nhân bản, tri thức, tâm linh và mục vụ, giáo phận Qui Nhơn đã tổ chức cuộc gặp gỡ sinh hoạt thường niên mùa hè cho các chủng sinh từ ngày 30.07 - 03.08.2012.
Người chủng sinh thuộc về ai? Đây là câu hỏi mà hằng ngày mỗi anh em chủng sinh phải tự vấn để duyệt xét lại bản thân và định hướng cho mình một con đường đi đúng đắn và thích hợp.
Cuộc gặp gỡ 2012 cũng nằm trong quỹ đạo ấy. Để xoá bỏ sự ngăn cách, khơi dậy những thói quen đạo đức và những đức tính nhân bản vốn có của người môn đệ đang trên hành trình theo Chúa, tất cả mọi việc đều phải quy chiếu về một mối là chính Chúa Giêsu. Bước theo vị Thầy Giê-su Chí Thánh, trước hết, mỗi người chủng sinh cần phải ý thức mình là người thuộc về Chúa, do đó, phải có một đời sống nhân bản tốt, một con tim biết yêu thương, không ngừng trau dồi kiến thức để kiên định trong phán đoán, sống hoà đồng với giáo dân, trong tình huynh đệ anh em và nhất là phải có đời sống nội tâm sâu sắc.
Vì thế, sám hối và thanh tẩy là điều cần thiết và cần được thực hiện xuyên suốt trong cả cuộc đời dâng hiến. Đó là ý nghĩa của cuộc gặp gỡ 2012 và được đúc kết từ những phần trình bày dưới đây:
- Huấn từ khai mạc- đường hướng giáo phận (Đức Cha Mattheo Nguyễn Văn Khôi)
- Nội dung và ý nghĩa của gặp gỡ 2012 (Cha giám đốc Giuse Huỳnh Văn Sỹ)
- Tâm tình và ưu tư của Đấng Bản Quyền (Cha TĐD Phêrô Hoàng Kym).
- Sám hối và thanh tẩy về nhân cách (Cha Phêrô Nguyễn Đình Hưng)
- Học hỏi về sắc lệnh truyền giáo Ad Gentes (Cha Phaolô Nguyễn Minh Chính)
- Sám hối và thanh tẩy về công tác truyền giáo (Cha Phêrô Trương Minh Thái)
- Học hỏi về lịch sử giáo phận (Cha Gioan Võ Đình Đệ)
- Sám hối và thanh tẩy về bổn phận (Cha Giuse Nguyễn Bá Trung)
- Sám hối và thanh tẩy về đời sống thiêng liêng (Cha Phêrô Lê Nho Phú)


ĐỀ TÀI THẢO LUẬN
I. NỘI DUNG - Ý NGHĨA CHỦ ĐỀ CUỘC GẶP GỠ 2012

Đề tài được Cha Giám Đốc Chủng Viện Giuse Huỳnh Văn Sỹ đặt ra để thảo luận: Cần làm gì (trước mắt và lâu dài) và cách thức nào để có thể xây dựng sự đoàn kết và tinh thần bác ái huynh đệ giữa các chủng sinh trong giáo phận?
Như chúng ta đã biết, giáo phận Qui Nhơn có một truyền thống tốt đẹp: đoàn kết yêu thương. Tuy nhiên, trong thời gian qua, truyền thống ấy đã phần nào suy giảm khi vẫn còn tồn đọng một số vấn đề: một vài anh em vẫn còn thụ động, ít chịu khó chia sẻ tâm tình cho nhau, đồng thời cũng còn thiếu tôn trọng sự riêng tư của người khác. Như thế, bản thân đã tự tách ly khỏi cộng đoàn. Do đó, việc trước mắt và lâu dài là mỗi người hãy từ bỏ cái tôi, cởi bỏ con người khép kín để hoà nhập vào đời sống chung của chủng sinh đoàn. Tiếp đến, trong môi trường Đại Chủng Viện, anh em cần có sự gặp gỡ hàng tháng để chia sẻ cho nhau về học tập và về đời sống thiêng liêng. Trong thời gian nghỉ hè, giáo phận cũng tổ chức một vài ngày để cho các anh em chủng sinh gặp gỡ và trao đổi về những khó khăn của từng người. Bên cạnh đó, có anh em ý kiến cho rằng chúng ta nên tổ chức chuyến đi chơi chung để tạo sự gần gũi thân thiện; thường xuyên thăm viếng để biết hoàn cảnh của từng người và động viên, chia sẻ với người anh em gặp khó khăn; cầu nguyện cho nhau qua các giờ đạo đức thiêng liêng, nhất là vào những dịp lễ bổn mạng.
Thế nhưng, thiết nghĩ rằng, tất cả những điều trên chỉ là hình thức bề ngoài, còn điều quan trọng là phải có sự hy sinh thật sự, sẵn sàng đón nhận, chung tay chung sức tạo nên bầu khí hài hoà, thông cảm cho nhau. Nếu trong môi trường chủng viện mà chúng ta còn lơ là, sống qua ngày thì tương lai của chúng ta sẽ là một dấu chấm hỏi. Vì linh mục tương lai như thế nào là tùy thuộc ở người chủng sinh hôm nay.

II. HUẤN TỪ - ĐƯỜNG HƯỚNG GIÁO PHẬN

Trong bài chia sẻ, Đức Cha Mattheo đã giúp mỗi người chủng sinh có cái nhìn cụ thể và rõ ràng về đường hướng của giáo phận để từ đó khơi dậy trong lòng mỗi người ý thức truyền giáo.
Như chúng ta đã biết, năm 2018 là năm mà giáo phận Qui Nhơn kỷ niệm 400 năm Tin Mừng lần đầu tiên được rao giảng tại giáo phận (Nước Mặn). Vì thế, giáo phận đã lên chương trình chuẩn bị, sau 4 năm chuẩn bị xa từ 2008-2011, tiếp đến là 6 năm chuẩn bị gần từ 2012-2017, mỗi năm nhấn mạnh đến hai khía cạnh: chiều kích thiêng liêng và định hướng truyền giáo.
Người chủng sinh có bổn phận đối với sứ mạng truyền giáo của giáo phận như thế nào? Hãy nhìn vào các nhà truyền giáo xưa kia, chúng ta hãy tự vấn lương tâm của bản thân. Trước đây, các nhà truyền giáo với những phương tiện lạc hậu, vốn liếng ít ỏi của mình, thế nhưng các ngài đã làm trổ sinh biết bao bông hạt, còn hôm nay, với phương tiện trang bị đầy đủ lẽ nào chúng ta lại không thực hiện được? Các Tông đồ xưa kia cũng là những con người bình thường như chúng ta nhưng lại “nhuộm đỏ” cả thế giới, còn chúng ta lại không trở thành những người thợ gặt truyền giáo nhiệt thành sao?
Qua bài chia sẻ, Đức Cha Mattheo đã gởi gắm đến từng người sứ mạng truyền giáo. Một câu hỏi làm cho chúng ta có thể băn khoăn mãi: liệu rằng chúng ta có đủ can đảm mạnh dạn dấn thân và làm chứng cho Tin Mừng của Chúa ở bất kỳ hoàn cảnh nào hay không? Đó như là một sứ điệp nhắn nhủ và thúc bách chúng ta hãy lên đường phục vụ bằng tất cả sự tin yêu và lòng nhiệt thành tông đồ của Chúa. Hy vọng chúng ta có đủ tình thương để không bao giờ dửng dưng trước cuộc sống khó khăn của bao người, nhất là những người chưa một lần nhận ra khuôn mặt của Đức Kitô.

III. TÂM TÌNH VÀ ƯU TƯ CỦA ĐẤNG BẢN QUYỀN

Hai chữ “ tâm tình” và “ưu tư” xuất phát từ con tim, từ tận đáy lòng: tâm tình đối với Chúa và tha nhân, và ưu tư về sứ mạng truyền giáo.
1. Khoa nhân bản nhân cách giúp gì cho đời mục vụ của bạn sau này (một vài ví dụ tích cực và tiêu cực mà bạn đã thấy hay tiên đoán)?
Quả thật, nhân bản nhân cách giúp cho người chủng sinh rất nhiều trong cách giao tiếp ứng xử. Qua một cử chỉ, một lời nói, khi nhìn vào, người ta có thể đánh giá người đó tốt hay xấu. Điều đó ảnh hưởng đến công việc mục vụ mai này của chúng ta. Một chủng sinh, một linh mục mà tác phong thiếu nghiêm túc sẽ tạo nên một cái nhìn phản cảm cho giáo dân. Là người chủng sinh, chúng ta cũng không nên chạy theo lẽ thường của thói đời, mà phải biết trau dồi và rèn luyện nhân cách mỗi ngày, bởi lẽ người chủng sinh hôm nay như thế nào thì tương lai linh mục sẽ như thế đó. Do đó, chúng ta phải biết nhã nhặn, lịch sự và lưu tâm đến cung cách ứng xử của mình.
2. Chưa phải là đa số, nhưng có nhiều bà con bên lương đến hôm nay vẫn còn lo sợ cho con mình khi vào đạo thì bỏ ông bà tổ tiên (đa số bà con vùng quê), mặc dù họ cũng biết hay nghe nói về đạo. Tại sao và làm cách nào?
Đây là vấn nạn thường gặp trong cuộc sống. Não trạng của người lương dân: theo đạo là bỏ ông bà tổ tiên vẫn còn trong tâm trí. Lắm lúc, người Kitô hữu ứng xử vấn đề gia tiên lễ lạt một cách cứng nhắc làm cho họ dễ ngộ nhận. Tìm ra phương thức giải quyết vấn đề này không phải là điều đơn giản. Vì thế, trước hết, người Kitô hữu phải là người thuộc về Chúa thật sự, rồi mới mang Chúa đến với người lương dân. Tiếp đến, chúng ta phải sống đúng tinh thần Kitô giáo, không “quảng cáo” một thứ tôn giáo giả tạo, và phải biết phương cách đối thoại. Đối thoại phải bằng ngôn ngữ tình yêu. Chính Đức Gioan Phaolô II đã dùng từ đối thoại để ám chỉ tình yêu: “Con người không thể sống nếu thiếu tình yêu. Đời sống con người sẽ trở nên vô nghĩa nếu không đón nhận mặc khải tình yêu, nếu không gặp gỡ tình yêu, không thể nghiệm tình yêu, và không lấy tình yêu làm của mình, nếu không dự phần mạnh mẽ vào tình yêu”. Phải đối thoại “bằng cuộc sống và bằng tấm lòng”, một tấm lòng khiêm tốn dịu dàng, không tự phụ trong khi gặp gỡ nhau”. Sau cùng, qua các nghi thức an táng, đọc kinh liên gia và cầu lễ, chúng ta tìm cách tiếp cận và giải thích cho họ hiểu tường tận, biến đổi họ thành người của tôn giáo mình, từ đó họ trở nên công cụ của Chúa đến với người khác.
3. Đi vào sám hối và thanh tẩy, bạn thấy, ngoài chương trình đã đưa ra, còn có sám hối nào nữa, hiện tại ở quê bạn hay môi trường bạn đang sống?
Ngày nay, đời sống của người giáo dân chủ yếu phụ thuộc vào kinh tế. Do đó, việc sám hối rất khó thực hiện. Ngoài những sám hối:
-  về mối bất hoà trong gia đình và gia tộc;
- sám hối về những tiêu cực trong đời sống cộng đồng: thiếu trung thực và thiếu hài hoà trong đời sống chung;
- sám hối về đời sống lỗi đức trong sạch lành mạnh: Người giáo dân không thể nhận thầy và hiểu được ý nghĩa của đức trong sạch trong đời sống vợ chồng. 
- sám hối và thanh tẩy về tệ nạn rượu chè, ma tuý;
- sám hối và thanh tẩy về cờ bạc, số đề;
- sám hối về lễ Chúa Nhật không nên;
- sám hối về kinh nguyện gia đình;
- sám hối về việc xưng tội rước lễ;
- sám hối về việc dạy và học giáo lý;
- sám hối về chữ hiếu;
- sám hối về bổn phận đối với giáo xứ: người nhà quê xem nhà thờ như là “ngôi nhà chung”, còn người thành phố xem nhà thờ như một “siêu thị”.
- sám hối về bổn phận đối với xã hội;
chúng ta còn phải kể đến:
- sám hối về thông tin: nhất là những giáo xứ vùng quê chưa có điều kiện, chưa được tiếp cận các phương tiện truyền thông, thông tin chậm trễ và còn sai lạc.
- sám hối về hiệp thông cầu nguyện cho người qua đời;
- sám hối về lòng thương xót Chúa;
- sám hối về đi đàng Thánh giá;
- sám hối chính trong các hội đoàn;
- sám hối thăm viếng mục vụ: vẫn còn linh mục chưa đến được với giáo dân.

IV. SÁM HỐI VÀ THANH TẨY VỀ NHÂN CÁCH

Xã hội hôm nay thường đánh mất chính mình do sự thiếu trung thực và thiếu hài hoà trong cuộc sống chung. Điều đó ảnh hưởng đến đời sống của người chủng sinh. Giáo phận mời gọi chúng ta sám hối về vấn đề này bằng cách sống chữ tín. Bên cạnh đó, những tệ nạn rượu chè, ma tuý, cờ bạc, số đề đang làm băng hoại chúng ta.
1. Người ứng sinh linh mục nếu sống thiếu trung thực, thiếu hài hoà trong đời sống chung thì gây ảnh hưởng gì đối với đời sống bản thân, cộng đoàn và cộng đồng xã hội?
- Đối với bản thân: đánh mất chính mình, bị cô lập, lo âu sợ sệt.
- Đối với cộng đoàn: chia rẽ, tự ly khai, khó khăn trong việc cộng tác.
- Đối với Cộng đồng xã hội: gây gương mù gương xấu, tự đào thải chính mình, giảm uy tín, khó giao tiếp với mọi người và không được người ta đón nhận.
2. Tệ nạn rượu bia đã làm phương hại nhân cách của một ứng sinh linh mục như thế nào? Dù ở chốn đông người hay nơi chỉ có anh em ta, tôi có khiêm nhường trong việc dùng rượu bia không?
Luyện tập đức điều độ, tự chủ, biết dừng đúng lúc, biết tự lượng đúng sức mình và không ép buộc người khác nếu người đó không thể.
3. Là ứng sinh linh mục, tôi có mượn các hình thức của trò tiêu khiển để biến nó thành cờ bạc không và tôi đã đam mê gì trong các món của cờ bạc?
Ai cũng có đam mê, nhưng đam mê quá mức thì không tốt. Cờ vua, đá bóng, cờ tướng,… nếu vui chơi để giải trí thì được, tuy nhiên để thoả mãn và ham chơi quá mức, điều đó sẽ không tốt và đôi khi làm gương mù gương xấu cho người khác.

V. HỌC HỎI SẮC LỆNH VỀ TRUYỀN GIÁO AD GENTES

Vấn đề truyền giáo đối với giáo phận là vấn đề cấp bách không chỉ dành riêng cho hàng giáo phẩm, mà là sứ mạng của tất cả mọi thành phần dân Chúa. Sứ mạng ấy bắt nguồn từ tình yêu Chúa Ba Ngôi.
Quan niệm về truyền giáo liên tục lớn mạnh và phát triển theo suốt dòng lịch sử Giáo Hội. Ước muốn truyền giáo đã có từ thời Cựu ước, phát triển trong thời Tân ước và được tiếp nối bởi Giáo Hội.
Khi nói về truyền giáo trong Tân ước, các bản văn tuy hình thức khác nhau nhưng có cùng một nội dung. Trong Mc 16,15, lệnh truyền giáo mang tính cách lên đường; Mt 28,19 mang tính cách giáo huấn; Lc 24,48 có tính cách làm chứng; và Ga 20,21-23 có tính cách biến đổi.
1. Đâu là mẫu số chung giữa truyền thống Việt Nam và luân lý Kitô giáo. So với truyền thống Việt Nam thì nền luân lý Kitô giáo có điểm trỗi vượt nào khiến cho người ta dễ tin theo.
* Mẫu số chung giữa truyền thống Việt Nam và luân lý Kitô giáo:
Có thể nói truyền thống luân lý Việt Nam được hình thành dựa trên đạo thờ ông thờ bà (đạo hiếu) và đạo thờ trời. Bởi đó, trong luân lý đời sống hằng ngày, tự nhiên người ta đối xử với nhau theo những quy tắc chung. Tin trời và thờ trời nên họ sống:
- Hiếu thảo với cha mẹ.
- Yêu thương đùm bọc lẫn nhau đối với người trong nhà cũng như người ngoài, ca dao có câu: “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.”
- Chớ giết người hay xúc phạm đến người khác.
Tất cả có thể gồm tóm lại trong ngũ thường nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.
Nhìn vào luân lý kitô giáo, chúng ta có thể thấy rõ những nét tương đồng trên. Cho dù cách thể hiện có khác như Mười điều răn, Thương người có mười bốn mối…
   Tóm lại, nó đều quy tụ trong tình yêu thương giữa người với người theo sự chỉ dạy của Đấng chí thánh.
* So với truyền thống Việt Nam thì nền luân lý kitô giáo có những điểm trỗi vượt hơn?
Nền luân lý kitô giáo có thể giúp con người hoàn thiện hơn trong Chúa Kitô:
 - Không chỉ yêu thương anh em mình mà còn yêu thương chính kẻ thù của mình. (Nếu anh em chỉ yêu thương anh em của mình thôi thì cũng chẳng khác gì lương dân).
- Hiếu thảo không những với ông bà cha mẹ gần gũi mình mà còn hiếu thảo với nguồn gốc sâu xa của mình chính là Đấng tạo dựng, là Thiên Chúa.
- Sự thưởng phạt không những ở đời này mà còn ở đời sau.
Sự trỗi vượt này đã được chính Chúa Giêsu chỉ dạy cho chúng ta, và các thánh là hình ảnh sống động minh chứng cho sự trỗi vượt đó.
2. Cách thức để tái truyền giáo (tân Phúc Âm hóa) cho những người có đạo nhưng đã bỏ đạo.
Đời sống đạo của một số giáo dân trong giáo phận đang đi xuống, đạo đức, nhân bản, đức tin có nguy cơ bị tuột dốc không phanh. Một số tín hữu đã bỏ đạo.
Có nhiều lý do khiến người có đạo bỏ đạo. Với những lý do khác nhau thì cần có những cách thức khác nhau sao cho thích hợp để tái truyền giáo cho họ, giúp họ trở lại đạo Chúa.
Vì thế, chúng ta cần:
- Cầu nguyện cho việc tái truyền giáo, làm gương tốt.
- Đối với những người yếu đức tin, chúng ta cần thăm viếng, an ủi, cầu nguyện cho họ.
- Đối với những người bê trễ vì hoàn cảnh khó khăn, chúng ta có thể giúp đỡ họ về vật chất (theo khả năng) nhưng tránh tình trạng gọi là “đạo gạo”.
- Đối với những người bỏ đạo vì bất mãn với những vị lãnh đạo, chức sắc trong đạo thì cần phải kiên trì đến với họ hoặc nhờ những người có uy tín trong đạo đến khuyên nhủ giải thích cho họ. Thật vậy, một số nơi cách sống đạo quen thói phô trương, quen thói tranh cãi ầm ĩ, quen thói ích kỷ không muốn dấn thân làm việc bác ái. Họ "giữ đạo" mà không sống đạo. Chúng ta thấy bây giờ cái gì cũng cần đổi mới, phương chi cách sống đạo quá phô trương hời hợt bên ngoài, ảnh hưởng đến người khác.
- Đối với những người bỏ đạo, rối đạo vì hôn nhân dị giáo thì cần quan tâm, an ủi động viên họ, khơi gợi lòng đạo đức và sự hy sinh của họ để họ có thể đứng vững.
- Đối với những người bỏ đạo nhưng vì đời sống kinh tế gia đình (theo đảng) thì cần giải thích, giúp họ phân định đâu là giá trị đích thực.
- Đối với những người bỏ đạo do thời cuộc, chúng ta cần phải mau chóng đến với họ, đón nhận họ, dẫn họ trở lại với Chúa.
Mục đích của việc tái truyền giáo là rao giảng Tin Mừng lại cho những người nguội lạnh, lạc lõng về đức tin để họ có cơ hội trở lại đạo Chúa, trở thành Kitô hữu tốt, ngõ hầu họ được đón nhận ơn cứu độ. Và trên hết, noi gương Ðức Giêsu, Ðấng đã khiêm tốn xin người thiếu phụ Samari cho nước uống, trước khi mạc khải cho chị nước hằng sống. Chúng ta cũng phải biết khiêm tốn xin "nước uống" nghĩa là dần dần và từ từ giải thích và trình bày Tin Mừng của Ðức Giêsu cho họ. 

VI. SÁM HỐI VÀ THANH TẨY VỀ CÔNG TÁC TRUYỀN GIÁO

Truyền giáo là bản chất của Giáo Hội. Vì thế, người Kitô hữu mà không nghĩ đến truyền giáo thì phần nào đã đánh mất căn tính của người Kitô hữu.
Với tư cách là chủng sinh, linh mục tương lai, chúng ta cần chuẩn bị cho mình những hành trang cần thiết để trở nên những thợ gặt lành nghề như lòng Chúa mong ước. Mục tiêu cuộc đời không phải là chức linh mục nhưng mục tiêu ấy chính là đem về cho Chúa bao nhiêu chiên lạc. Chỉ khi nói không với những ý riêng, nhờ ơn Chúa giúp, chúng ta có thể trở thành khí cụ để Chúa thực hiện những dự định của Ngài. Chỉ khi chọn yêu mến Chúa và tâm huyết với các linh hồn, chúng ta mới có thể vượt qua chính mình, vượt qua những thử thách, khó khăn trên hành trình loan báo Tin Mừng.
1. Với tư cách là một người chủng sinh của giaó phận Qui Nhơn, thầy có thao thức về việc truyền giáo hay không? Thầy muốn mình dấn thân như thế nào trong việc truyền giáo của giáo phận. 
Tự bản tính giáo hội lữ hành phải truyền giáo, vì chính Giáo Hội bắt nguồn từ sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần theo ý định của Thiên Chúa Cha. Vì thế, sứ mệnh truyền giáo là nhiệm vụ của tất cả mọi Kitô hữu nói chung và cách riêng đó là nhiệm vụ của mỗi người chủng sinh trên bước đường tiến tới thiên chức linh mục.
Trước đây, chúng ta cứ nghĩ rằng làm linh mục triều thì chỉ quanh đi quẩn lại với những công việc mục vụ đơn giản nơi giáo xứ của mình. Liệu rằng có nhàm chán quá không cho một cuộc đời dâng hiến? Đến nay, khi được đào tạo và tự đào tạo tại môi trường Chủng viện cũng như qua những lần ghé thăm giáo xứ của các Cha mà chúng ta đã từng quen biết, chúng ta dường như nhận ra sự cấp bách của công cuộc truyền giáo trong bối cảnh xã hội ngày nay cũng như công việc mà một Cha xứ đích thực phải làm. Chúng ta mới thật sự cảm thấy một sự khao khát dấn thân cho việc truyền giáo. Nó như ngọn lửa nung cháy tâm hồn chúng ta, thôi thúc chúng ta, như khẩu hiệu mà Đức Cha Mattheo đã chọn: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách chúng tôi” (Caritas Christi urget nos).
Đời sống sứ vụ tương lai mà người chủng sinh linh mục hướng đến là yêu mến Chúa và các linh hồn. Vì thế, chúng ta cần phải “ra đi và đến ở với họ” với những người thật sự có tâm hồn khao khát tìm đến với Thượng Đế. Quan trọng hơn chúng ta cần có tinh thần nhập cuộc, hoà đồng, quan tâm, cảm thông với đời sống của tha nhân. Đặc biệt, sự hiện diện của người chủng sinh cùng với đời sống nhân bản và tâm linh thể hiện qua khuôn mặt Chúa Kitô sẽ làm muối làm men làm ánh sáng. Đó sẽ là niềm an ủi mang lại niềm vui và hạnh phúc đích thực cho tha nhân trong cuộc đời đầy những gian nan đau khổ này.
2. Đối với thầy, đâu là hành trang cần thiết nhất và những hành trang hữu ích khác mà mình cần chuẩn bị cho hành trình truyền giáo mai ngày?
Hành trang cần thiết nhất là lòng yêu mến Chúa Kitô và các linh hồn, đồng thời cần phải có lòng nhiệt huyết dấn thân truyền giáo:
- Biết kết hợp với Chúa.
- Sốt sắng đạo đức, gương mẫu.
- Khao khát cứu rỗi các linh hồn.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải trang bị cho mình những hành trang hữu ích khác như:
- Khả năng tri thức về đạo cũng như đời.
- Nhân cách nhân bản, khả năng ứng xử, giao tiếp.
- Tính kiên trì, kỷ luật.
- Đôi khi một số tài lẻ cũng giúp ích rất nhiều.
Ngoài một số hành trang đã kể trên, còn nhiều điều khác nữa mang tính cá nhân của mỗi người, mỗi người cần tự trau dồi cho mình để sau này giúp ích nhiều hơn cho công việc truyền giáo.

VII. HỌC HỎI VỀ LỊCH SỬ GIÁO PHẬN
1. Những bài học được rút ra từ những kinh nghiệm truyền giáo của các cha Dòng Tên (1615-1625) để áp dụng cho công việc mục vụ mai này.
Xã hội thời nào cũng xem việc truyền giáo là vấn đề khó khăn và cấp bách. Thế nhưng, làm cách nào để công việc truyền giáo mang lại hiệu quả tích cực? Trước hết, điểm nhấn mạnh đầu tiên là phải có ơn Chúa soi sáng và hướng dẫn. Tiếp đến, việc truyền giáo đòi hỏi người ra đi phải có nhiệt huyết truyền giáo và sự kiên trì. Tuỳ theo hoàn cảnh và tình hình ở mỗi vùng, mỗi địa phương khác nhau, chúng ta phải biết đào tạo những tông đồ giáo dân nhiệt thành đạo đức để thích nghi và hội nhập văn hoá, đến và cùng sống với người chưa nhận biết Chúa, cùng vui, cùng buồn với họ để họ có cảm tình với đạo. Điều này đòi hỏi mỗi người chúng ta một sự từ bỏ dấn thân tột cùng. Như xưa các nhà thừa sai đã dám từ bỏ quê hương, bà con thân thuộc để ra đi đến vùng đất xa lạ, không biết sống chết ra sao, nhiều lần các ngài bị trục xuất nhưng vẫn kiên trì lui tới vùng truyền giáo,  chúng ta hôm nay cũng được mời gọi lên đường đến với họ bằng tấm lòng chân thành, không phải mang trong mình tinh thần của một người “qua cầu rút ván”.
Là thế hệ tương lai của giáo phận, ngay từ khi còn sống dưới mái trường Đại Chủng Viện, mỗi người chủng sinh cũng tự đào tạo và rèn luyện cho mình 4 chiều kích: nhân bản - tri thức - tâm linh - mục vụ.
Về nhân bản: luôn xây dựng mối tương quan, sống hài hoà và hội nhập với giáo dân.
Về tri thức: tìm tòi, học hỏi không ngừng và làm việc có phương pháp, bởi lẽ các cha Dòng Tên mặc dù điều kiện thiếu thốn, nhưng không chỉ học hỏi tiếng Việt, mà còn tạo ra một ngôn ngữ mới: chữ Quốc ngữ.
Về tâm linh: làm việc vì lòng mến Chúa, sáng danh Giáo Hội và vì phần rỗi các linh hồn.
Về mục vụ: Nhìn vào các ngài, mặc dù không phải cùng một dân tộc nhưng các ngài sẵn sàng ra đi, sống gắn bó với nhau và mong được sống chết ở nơi mình truyền giáo, điều này đòi hỏi sự từ bỏ không ngừng.
2. Một vài điểm sáng của Thầy Anrê Phú Yên để chúng ta noi gương
Trong đời sống, khi nói đến Thầy Anrê Phú Yên là nói đến sự hy sinh vì và cho tình yêu Thiên Chúa, quên mình để đáp trả tình yêu. Qua lời nhận xét của Cha Đắc Lộ, chúng ta có thể kể ra một vài điểm về Thầy Anrê Phú Yên:
-              Là người thông minh học đâu hiểu đó.
-              Việc trong nhà dù khó mấy cũng làm.
-              Sống giữa mọi người như một vị Thánh nhỏ, làm những công việc như dọn bàn thờ, làm hang đá, chăm sóc bệnh nhân.
VIII. SÁM HỐI VÀ THANH TẨY VỀ BỔN PHẬN
Trong phần này, xin được giới hạn ở việc bổn phận của chủng sinh đối với việc thực tập mục vụ tại giáo xứ. Có thể nói thời gian thực tập mục vụ là dịp tốt để thực hành những gì đã được học ở môi trường chủng viện và giáo xứ là trường để tôi luyện bản thân, tập sống tinh thần dấn thân phục vụ. Nó giúp cho người chủng sinh có thêm kinh nghiệm mục vụ, học biết được những điều hay và mới qua cách điều hành và tổ chức của Cha Sở, và thấy được những nhu cầu, những trăn trở, những khao khát mà giáo dân đang mong chờ nơi người mục tử tương lai.
1.                       Thầy học hỏi được điều gì qua những bổn phận thầy thực tập ở giáo xứ?
Tập làm quen với công việc chung: vâng lời Cha Sở, tập sống khó nghèo.
Siêng năng đọc kinh phụng vụ, năng viếng Thánh Thể mỗi ngày, đọc kinh chung với giáo dân trước Thánh lễ.
Chú trọng đến việc giao tiếp ứng xử với người khác: lễ phép với người lớn tuổi.
2.                       Thầy gặp những thuận lợi và khó khăn nào khi thi hành những bổn phận ở giáo xứ?
Với 4 chiều kích đã được đào tạo và tự đào tạo về nhân bản, tri thức, tâm linh và mục vụ, khi đến với môi trường giáo xứ, người chủng sinh không tránh khỏi những khó khăn:
- Tương quan với Cha xứ, giáo dân và công việc giáo xứ, trong đó Cha xứ có vai trò và tiếng nói quyết định.
- Chưa từ bỏ được cái tôi để hoà mình vào hoàn cảnh mới.
- Sự thụ động cũng như những lý thuyết sách vở chưa được “tiêu hoá”.
- Khi tổ chức một chương trình nhiều khi đòi hỏi nhiều kinh phí nên chưa biết phải giải quyết ra sao.
- Vì quá mải mê với công việc nên nhiều khi bỏ bê các việc đạo đức.
Tuy nhiên, người chủng sinh cũng có nhiều thuận lợi khi được đón nhận và nâng đỡ của Cha Sở và bà con giáo dân. Bên cạnh đó, sự quan tâm và chia sẻ đúng lúc của anh em đi trước là nguồn động lực giúp bản thân ta chu toàn công việc. Người khôn ngoan là người “đi thưa về trình”.
Áp dụng cụ thể vào đời sống: Mỗi người cần phải có sự khôn ngoan phân định. Trước hết, cần phải định hướng và có chương trình cụ thể về từng ngày, tuần sống của mình (phương pháp xem - xét - làm). Xây dựng sự hiệp nhất trong giáo xứ, học hỏi những điểm tốt nơi người khác. Đặc biệt, giữ các việc đạo đức thiêng liêng. Chính vì những khó khăn khi giúp xứ nên ta cần khôn ngoan và khéo léo trong các tình huống và trong cách ứng xử để những mối tương quan và công việc được tốt đẹp.
Ban Thư ký
Thư ký chung: Phaolô Trần Thanh Nhân
Thư ký các tổ: 1. Giuse Nguyễn Thanh Việt. 2. Giuse Nguyễn Hạ Huy. 3. Stêphanô Nguyễn Văn Chín

Không có nhận xét nào: