Mỗi ngày một danh ngôn

Thứ Tư, 14 tháng 3, 2012

Huấn dụ của ĐGM

HUẤN DỤ CỦA ĐỨC GIÁM MỤC GIÁO PHẬN
ĐỐI VỚI LINH MỤC QUI NHƠN NHÂN DỊP TĨNH TÂM NĂM 2012

Kính thưa       - Cha Tổng Đại diện,
- Quý cha hạt trưởng và quý cha.

DẪN NHẬP
Thánh Augustinô nói rằng: Cho anh em tôi là Giám Mục, với anh em tôi là Kitô hữu (Vobis enim sum episcopus, vobiscum sum christianus). Với nhiệm vụ đã được Chúa và Hội Thánh trao phó cũng như trong tình hiệp thông huynh đệ, tôi xin mạn phép nhắn nhủ với quý cha đôi điều nhân dịp tĩnh tâm nầy.
Chúng ta còn 6 năm chuẩn bị cho việc cử hành Năm Thánh giáo phận (2018) để kỷ niệm 400 năm giáo phận đón nhận Tin Mừng. Mỗi năm sắp đến chúng ta có một chủ đề sống. Chủ đề sống năm 2012 là sám hối- thanh tẩy. Ai trong chúng ta cũng cần sám hối và người linh mục càng cần phải đi bước trước trong việc nầy.
Việc sám hối và thanh tẩy phải toàn diện và triệt để. Sám hối- thanh tẩy phải bắt đầu từ chiều sâu nội tâm; không chỉ một vài phương diện nào đó mà phải bao gồm mọi chiều kích của cuộc sống mà đặc biệt là sứ vụ của người linh mục; không phải chỉ một khoảng thời gian nào đó mà phải thực hiện thường xuyên trong cuộc đời, không chỉ trong mối tương quan với Chúa mà còn với chính bản thân mình, không chỉ với anh em linh mục nhau mà còn với bề trên và với giáo dân…
Thời giờ ngắn ngủi không cho phép chúng ta đào sâu tất cả các khía cạnh mà chỉ nhấn mạnh một vài điểm có tính thực tế hiện nay. Chúng ta sẽ tiếp tục trong suốt năm nay sống cao độ tinh thần hoán cải và thanh tẩy tâm hồn.
1. Căn tính linh mục
Kính thưa quý cha,
1.1. Trước hết chúng ta cần xác tín và ý thức về chức linh mục Chúa ban cho mình. Đó là một ơn hết sức lớn lao. Nhờ bí tích rửa tội, chúng ta trở nên người con của Chúa và trở nên phần tử của Hội Thánh. Qua bí tích truyền chức chúng ta trở nên những linh mục của Chúa, được đồng hình dạng với Chúa Kitô và được thông phần vào các chức vụ tiên tri, tư tế và vương đế của Ngài. Do căn tính linh mục, chúng ta có những nhiệm vụ tương ứng đó là giảng dạy, thánh hóa và cai quản Dân Chúa.
Chức linh mục chúng ta lãnh nhận có tính vượt thời gian nghĩa là đời đời. Chúng ta nhận được bài sai thay đổi nhiệm sở, làm việc nầy việc kia hay có về hưu đi nữa nhưng chức linh mục của chúng ta sẽ không bao giờ mất. Chức linh mục là một ơn nhưng không, nghĩa là không phải do công trạng hay tài năng của mỗi người nhưng do lòng yêu thương của Chúa. Ý thức như vậy để chúng ta khiêm tốn khi trong khi thực thi các sứ vụ và trung kiên trong đời sống linh mục đầy thách đố hôm nay.
1.2. Thông thường, sự khiêm nhường làm con người linh mục dễ thương, dễ gần gũi, còn sự trung tín được thể hiện qua sự vâng phục làm cho nhiều người nể phục.
Theo năm tháng của đời linh mục, cùng với những chức vụ được giao, những thành công mục vụ, những lời xưng hô kính trọng, những lời cám ơn và tán dương tận mây xanh, những quyền hạn trong tay mà người linh mục thích thể hiện, những sự cung phụng chiều chuộng của người khác dành cho, những của cải tiền bạc ngày càng dồi dào,… có thể làm cho sự khiêm nhường và trung tín nơi người linh mục thuở ban đầu của ngày chịu chức bị phôi pha. Khiêm nhường là một nhân đức được Chúa ưa thích. Người ta nói rằng có những cản trở sự khiêm nhường, có những trợ giúp cho sự khiêm nhường; nhưng không thể có sự thay thế cho đức khiêm nhường được.
1.3. Khiêm nhường phải đi đôi với trung tín. Có khi những thất bại, những sự gắt gỏng của người khác, những sự chống đối của giáo dân, những hiểu lầm, những tiếng chê cười mỉa mai của ai đó hay có khi chúng ta nhận được bài sai không ưng ý… có thể làm người linh mục chán nản và lòng trung tín nơi người linh mục bị mai một. Mẹ Têrêsa Calcuta nói rằng “Chúa không yêu cầu chúng ta thành công; Người yêu cầu chúng ta trung tín”. Có thể nói sự khiêm nhường thực sự và trung tín đến cùng làm cho người linh mục trở nên giống Chúa Giêsu hơn hết.
Mỗi ngày chúng ta hãy biết dành những khoảnh khắc để nhận biết về căn tính linh mục của mình, hãy ấp ủ và vui trong căn tính đó, hãy cảm tạ Chúa vì căn tính đó. Từ đó. những gì chúng ta thi hành trong sứ vụ linh mục sẽ có hiệu quả và rất khích lệ vì nó xuất phát tự căn tính người linh mục.
2. Nhiệm vụ rao giảng
Quý cha quý mến,
2.1. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của đời linh mục là việc giảng dạy. Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis của công đồng Vatican II khẳng định rằng: «Dân Chúa được đoàn tụ trước hết là nhờ Lời Thiên Chúa hằng sống; lời nầy phải được đặc biệt tìm thấy nơi miệng lưỡi các linh mục. Thật vậy, không ai có thể được cứu rỗi nếu trước đó không có lòng tin, do đó các linh mục, vì là cộng sự viên của các Giám Mục, nên trước tiên có nhiệm vụ loan báo cho mọi người Phúc âm của Thiên Chúa» (số 4).
Giảng dạy nói chung, đặc biệt là giảng trong thánh lễ không chỉ là nhiệm vụ mà còn là vinh dự và niềm vui của người linh mục. Đâu phải bất cứ ai cũng được lên tòa giảng. Người giáo dân luôn sẵn lòng lắng nghe chúng ta giảng, kể cả đó là những người cao niên hay giới trẻ và ngay cả ông bà cha mẹ của chúng ta nữa. Nếu không có chức thánh, có mấy người chăm chú nghe chúng ta giảng?
2.2 Thường giáo dân không chê trách về vấn đề luân lý, thần học, Kinh Thánh… trong bài giảng các cha, nhưng lại chú ý đến những bất toàn khác, chẳng hạn như: nói nhanh quá, cứ nói đi nói lại nhàm tai, bài giảng còn lộn xộn, giảng không có hồn, giảng dài giảng dai quá, đứng ở tòa giảng mà mắng chưởi, xỏ xiên, soi mói và coi người giáo dân như con nít,…
Ngày nay có nhiều cha giảng theo lối “mì ăn liền” khi dùng bài giảng “tiền chế” có đầy trên mạng. Nhiều cha nói rằng không thể soạn bài giảng nếu không có internet. Cũng có cha “nước đến chân mới nhảy”, nói thao thao bất tận, chẳng biết lúc nào “hạ cánh”, có khi “gãy cánh nửa đường” cũng chẳng biết, “gió cứ thổi đâu thì thổi”.
Nhiều người đồng ý rằng để một bài giảng hay cần có năm yếu tố là: ngắn gọn, đơn giản, chân thành, súc tích và có giá trị thực tiễn. Kinh nghiệm thực tế cho thấy rằng, yếu tố ngắn gọn ngày nay được chú ý trước hết, nên giảng Chúa Nhật không nên quá 10 phút và ngày thường vài ba phút là được; còn đơn giản tức là làm sao cho nhiều hạng người và mọi lứa tuổi có thể hiểu được; chân thành là giảng điều mình sống, sống thật với chính mình, không giả vờ, không đóng kịch; súc tích là không dàn trải mà triển khai vài tư tưởng chính; có giá trị thực tiễn là ý nghĩa bài giảng đi vào con tim và giúp người ta áp dụng vào đời sống theo hoàn cảnh hiện tại.
2.3. Hãy nhớ lại trong ngày chịu chức linh mục chúng ta được nhắc rằng cần «suy gẫm Luật Chúa, hãy chú tâm tin điều con đọc, dạy điều con tin và thi hành điều con dạy. Vậy giáo lý con phải nên lương thực nuôi dân Thiên Chúa, hương thơm đời sống con phải nên niềm vui thú cho các tín hữu Đức Kitô, để lời nói và gương lành con xây dựng nhà Thiên Chúa là Hội Thánh».
Nói một cách tổng quát, để thực thi sứ vụ rao giảng cho có sức thuyết phục phải đi từ cảm nghiệm cá nhân về Lời Chúa và rao giảng bằng chính đời sống gương mẫu linh mục về mặt thiêng liêng cũng như nhân bản.
3. Nhiệm vụ thánh hóa
Kính thưa quý cha,
3.1. Người ta thấy linh mục, nhất là nơi các cha sở, thường làm nhiều công việc khác nhau như giải tội, dâng lễ, làm linh hướng, nhà quản lý, thầy giáo, người giảng thuyết, tâm lý gia, nhà giáo luật, cố vấn pháp luật, ca trưởng, cố vấn hôn nhân-gia đình, nhà xây dựng, nhà kinh tế,… Đời sống linh mục đưa chúng ta dính dáng và liên hệ rất nhiều hạng người. Tuy nhiên có việc mà người đời dù giỏi mấy cũng không thể làm thay cho linh mục được. Đó là việc ban phát các bí tích. Linh mục là thừa tác viên nhiều bí tích. Không gì tốt hơn để giúp đỡ giáo dân cho bằng đem bí tích cho họ. Công việc chính của linh mục là trao ban bí tích. Đó là nhiệm vụ thánh hóa rất cao quý và đặc trưng cho căn tính linh mục.
3.2. Một trong những thử thách của đời linh mục đó là làm sao giữ sự sốt sắng khi cử hành các bí tích suốt đời mình, nhất là bí tích Thánh thể. Sốt sắng ở đây muốn nói là việc cử hành phải làm với đức tin mạnh mẽ, với sự tôn kính và thành tín hết lòng. Có cha cử hành thánh lễ thiếu trang nghiêm, đọc lời nguyện lua láu quá nhanh hay quá rề rà, chậm chạp; hoặc đang khi dâng lễ làm lo ra chia trí như to tiếng nhắc việc nầy việc khác, ra hiệu việc điều chỉnh âm thanh, quạt; cũng có khi rời khỏi cung thánh hay bàn thờ với nét mặt nhăn nhó, càu nhàu để điều chỉnh đúng ý mình,… Hãy lo liệu trước và giữ tâm tình sốt sắng trong các cử hành.
3.3 Những ngày đầu chịu chức, thường các linh mục mong sớm nhận được năng quyền giải tội và rất háo hức để ngồi tòa giải tội. Tuy nhiên cùng với thời gian, việc sẵn sàng và ngồi lâu giờ ở tòa giải tội là một thách đố lớn lao cho đời linh mục. Ở ta hiện nay nhiều giáo dân khao khát đến tòa giải tội, trong khi nhiều nước thì rất ít người đến. Phần chúng ta, đừng giới hạn hay cản trở giáo dân xưng tội. Vì để cho mình được thong dong thoải mái, nên có cha “giới hạn lòng thương xót của Chúa” đối với tội nhân khi từ chối hay đặt ra những qui định gây khó khăn cho giáo dân. Chẳng hạn có cha không giải tội cho hối nhân ngoài giờ do cha qui định hay một tuần cha ngồi tòa một lần từ 15 đến 30 phút thôi, ai trễ ráng chịu, ai phạm tội nặng ráng mang. Hãy tạo những gì thuận lợi nhất không phải cho bản thân linh mục nhưng cho giáo dân có thể được xưng tội dễ dàng. Cha thánh họ Ars rất kiên nhẫn “ngồi lì” ở tòa giải tội đến nỗi ghế ngồi và tòa giải tội bằng gỗ của ngài đã mòn nhẵn và lõm xuống nhiều chỗ.
3.4. Việc ban bí tích xức dầu bệnh nhân cũng đòi hỏi người linh mục không ngại khó khổ và sự mau mắn. Đối với giáo dân, việc người thân của họ không chịu các bí tích sau cùng là một đau khổ và ân hận lớn lao. Nhiều cha luôn để một túi xách nhỏ có đủ đồ cần thiết để có thể đem đi ban bí tích xức dầu bệnh nhân. Điều đó thật đáng quý.
3.5. nói chung, khi cử hành các bí tích mà không có niềm xác tín, sự tôn kính và thành khẩn người linh mục sẽ biến mình trở thành người công chức cho các “dịch vụ bí tích” hay các việc cử hành chẳng khác nào như một hình thức mê tín dị đoan.
4. Nhiệm vụ cai quản
Quý cha kính mến,
4.1. Khi được hỏi linh mục là ai?, người giáo dân thường trả lời rất đơn giản rằng: linh mục là người chăm sóc các linh hồn. Dù có thể không được học biết về chức linh mục, nhưng họ nhận thấy công việc thực tế của linh mục. Đó là công việc của người mục tử. Người mục tử đích thực phải hội đủ 3 yếu tố mà Chúa Giêsu đã chỉ ra: a) Biết chiên của mình, “Tôi biết chiên tôi và chiên tôi biết tôi” (Ga 10,14); b) dấn thân cho đàn chiên, “phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10); c) chết cho đàn chiên, “Tôi hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên” (Ga 10,12b).
Đặc biệt, động từ “biết” mà Chúa Giêsu sử dụng diễn tả một mối tương quan mật thiết giữa Mục tử và con chiên, biết ở đây có nghĩa là yêu mến. Yêu mến cần được thể hiện bằng hành động như sự hiện diện, quan tâm, lo liệu, chăm sóc, tìm kiếm chiên lạc, cứu chữa thương tích và bảo vệ đàn chiên được an toàn.
4.2. Thường các cha mới và các chủng sinh thực tập mục vụ tại các giáo xứ đều nói về sự khó khăn khi chuyển từ đời sống chủng viện sang đời sống giáo xứ. Cả hai nếp sống đều có những đòi hỏi, nhưng trong chủng viện thì biết trước và có thứ tự, còn đời sống ở giáo xứ thì bất chợt, không lường trước hết và phải chịu bị quấy rầy.
Nhiều cha coi việc giáo dân tìm đến với mình là “sự quấy rầy” nên rất khó chịu; cũng có khi coi đó là một “sự xâm phạm”, rồi tìm cách nầy cách khác “cấm cửa” giáo dân đến với mình. Chẳng hạn như luôn đóng cửa phòng, không tiếp khách vào Thứ Hai hàng tuần, cần phải gọi điện hay email trước, hay đến văn phòng gặp vào giờ hành chính; hoặc cần phải qua chức việc, thầy sở hay cha phó trước rồi mới đến cha sở, cũng có khi gặp được cha nầy lại chỉ qua cha kia…. Có cha dần dần dựng thêm những rào cản khác với những bao biện không gì khác hơn là nhằm cho bản thân mình được thoải mái và tự do. Không lạ gì nhiều giáo dân than phiền “tìm cha như thể tìm chim” hay “gặp cha khó hơn gặp Chúa” hoặc “lần đủ ba chuỗi mới gặp được cha”.
Chúng ta lưu ý rằng văn hóa người Việt rất khác xa với văn hóa Âu Mỹ. Sinh hoạt sống đạo của giáo dân Việt Nam cũng vậy. Giáo dân chúng ta rất tin tưởng và quý mến các cha. Họ cần đến các cha giúp cho họ nhiều vấn đề trong cuộc sống. Nhiều cha vắng khỏi giáo xứ nhiều quá vì cho rằng đã phân công có người làm việc rồi. Một linh mục giáo xứ phải biết đến sức mạnh của sự hiện diện của mình trong giáo xứ và như người ta nói “chỉ cần hiện diện đã là thành công một nửa”.
4.3. Linh mục không nên ở lì trong phòng đóng kín cửa và mất nhiều giờ “làm bạn” với tivi và internet. Có cha bây giờ rất ngại khi tiếp xúc và thăm giáo dân, nhất là người nghèo, người già nua bênh tật. Có cha giao hoàn toàn việc nầy cho các hội đoàn; có khi tìm nhiều lý do mà bỏ qua việc thăm viếng giáo dân. Nên nhớ nhiều người không bao giờ quên khi cha sở đến thăm nhà họ. Thăm viếng giáo dân lẫn lương dân là một thói quen mục vụ rất giá trị mà ngày nay đang dần bị xem nhẹ và quên lãng.
4.4. Trong điều hành mục vụ, các cha cũng cần biết tôn trọng người cộng tác với mình như cha phó, thầy sở, nữ tu, chức việc, và cả người giúp việc nhà - nội trợ. Đừng quá tính toán và nên nhớ nguyên tắc, giao việc cũng cần trao cả phương tiện thực hiện.
4.5. Trong việc quản trị giáo xứ, làm sổ sách rất quan trọng. Việc làm sổ sách rõ ràng và kịp thời nói lên tính khoa học và nghiêm túc trong công việc. Cha sở không nên khoán trọn cho người khác làm sổ mà thiếu sự kiểm tra, rà soát. Trước hết là sổ lễ, cần ghi đầy đủ những yếu tố cần thiết và minh bạch. Tiếp đến, cẩn thận làm các sổ khác, đặc biệt sổ rửa tội, thêm sức, hôn phối, sổ ghi chép những sự kiện lịch sử giáo xứ… đồng thời cũng cần lưu ý các loại giấy tờ có giá trị pháp lý về động sản và bất động sản của giáo xứ, tất cả phải cất giữ cẩn thận và gởi một bản sao để lưu giữ tại Tòa Giám Mục. Khi Giám Mục đi kinh lý đến giáo xứ, cha sở phải trình các sổ sách mà không đợi yêu cầu, có nơi các cha phải trình cả sổ lễ nữa. Hiện nay nhiều cha còn thiếu sót về việc làm sổ sách.
5. Đời sống nhân bản - tu đức – thiêng liêng của người linh mục
5.1. Chúng ta nghe rằng: Linh mục thánh thiện- giáo dân đạo đức, linh mục đạo đức- giáo dân khô khan, linh mục khô khan- giáo dân tội lỗi. Có thể nói đời sống nhân bản và thiêng liêng dù là vấn đề cá nhân linh mục nhưng có tầm ảnh hưởng rộng lớn và đem lại sức sống cho cộng đoàn.
Có khá nhiều tiêu chuẩn hay đúng hơn là các đòi hỏi nơi người linh mục ngày nay như: sống thánh thiện, có nội tâm sâu sắc, gương mẫu trong ứng xử, nhiệt thành, chăm chỉ, cần mẫn trong bổn phận, chăm lo mọi mặt cho giáo dân không chỉ về đời sống đạo mà còn về đời sống kinh tế nữa. Linh mục phải sống giản dị, khiêm tốn, bình dân, thân thiện không tỏ ra độc tài, sẵn sàng đối thoại, không định kiến…
5.2. Đòi hỏi sự thánh thiện nơi linh mục được đặt lên hàng đầu, vì nó quá thiết yếu để giữ vững căn tính linh mục, và nếu thiếu nó dường như những khía cạnh khác trở nên lu mờ. Biểu hiện cụ thể của sự thánh thiện và đời sống nội tâm chính là cầu nguyện, đặc biệt qua việc trung thành sốt sắng đọc Kinh thần vụ, cử hành Thánh lễ và cầu nguyện trước Thánh Thể. Đối với một số cha trẻ ngày nay, thời gian ở chủng viện chưa đủ lâu để thủ đắc thói quen và thấm sâu tinh thần cầu nguyện. Nhiều khi chỉ vì lý do không đáng, có cha đã dễ dàng bỏ việc cầu nguyện. Hy sinh thì giờ cầu nguyện không làm cho ta bị thiệt thòi nhưng ngược lại sẽ rất nhiều lợi ích cho đời linh mục.
 Nên nhớ điều nầy: linh mục phải là một người của Chúa, một người mà chính mình thuộc về Chúa và làm cho dân chúng nghĩ đến Chúa. Dân chúng trông đợi tìm thấy nơi các linh mục… một người sẽ giúp họ quay về với Thiên Chúa… và vì vậy, linh mục phải có sự tương giao mật thiết với Chúa Giêsu (xem Tông Huấn Pastores Dabo Vobis, số 47).
5.3. Một biểu hiện đặc trưng khác của sự thánh thiện là biết xét mình, sám hối và năng xưng tội. Các cha khuyên giáo dân siêng năng đến tòa giải tội còn phần mình có khi lại rất e ngại khi xưng tội, nhất là xưng tội chỉ với một người nào đó. Sự e ngại nầy nếu kéo dài sẽ làm tâm hồn dần dần chai lỳ. Chân thành thú nhận sự yếu đuối lầm lỗi của mình không phải là nhu nhược nhưng ngược lại đó là sự khiêm nhường, lòng can đảm và sự mạnh mẽ trong đời sống nội tâm. Một cách đơn giản nhưng hữu hiệu để xét mình và sửa đổi đó là theo Kinh cải tội bảy mối có bảy đức. Đây là kinh ai trong chúng ta cũng thuộc lòng: thứ nhất khiêm nhường chớ kiêu ngạo, thứ hai rộng rãi chớ hà tiện, thứ ba giữ mình sạch sẽ chớ mê dâm dục…
5.4. Trong giao tiếp hàng ngày, linh mục phải kính trọng mọi hạng người. Điều nầy dễ nhận thấy qua thái độ cư xử và cách xưng hô. Đừng ỷ mình là linh mục hay thấy được nhiều người kính trọng (vì có chức thánh) mà mình có những cử chỉ coi thường và những lời khiếm nhã với người khác. Cách riêng trong cách xưng hô, tối kị nếu xưng mình là “cha” với người lớn tuổi vì như vậy bị cho là “hỗn”. Thí dụ, một linh mục 30 tuổi mà xưng “cha” với cụ già 60, 70 tuổi là không nên; hoặc gặp cô gái trẻ đẹp mà cứ xưng “anh anh, em em” thì lại càng bị đàm tiếu. Tùy hoàn cảnh, nên xưng hô thế nào vừa thân thiện, lịch sự đúng mực vừa hợp văn hóa người Việt Nam.
5.5. Một vấn đề rất tế nhị không thể không nói là thái độ của linh mục đối với nữ giới và tiền bạc tức là về “tình và tiền”. Có thể nói hiện nay đó là “mối hiểm họa kép” đối với đời sống linh mục và được cảnh báo cao độ, kể cả từ phía Tòa Thánh. Đừng để tiền bạc và tình cảm lăng nhăng làm hoen ố đời sống linh mục.
Nghe nói có cha luôn thích xài đồ “xịn” và chạy theo thời trang: từ quần áo, nước hoa, xe cộ cho đến các đồ dùng điện tử cá nhân như laptop, điện thoại, iphone... Có cha tìm cách xin xỏ, hay viện lý do nầy lý do kia để làm sao cho có được đồ xịn nhất, mới nhất. Và như vậy vô tình bị lây nhiễm lối sống thế tục và sai lầm khi nghĩ rằng sở hữu của cải, đồ dùng cao cấp là thể hiện đẳng cấp hay giá trị con người.
Tuy nhiên vì công ích mà phải nói đến tiền bạc thì cần khéo léo, tế nhị và can đảm. Khá nhiều cha trong giáo phận chúng ta rất chịu khó đi nơi nầy nơi khác xin tiền phục vụ công ích và phát triển giáo xứ.
5.6. Còn về độc thân khiết tịnh linh mục thuộc đời sống cá nhân nhưng lại là vấn đề quan trọng đối với Giáo Hội và cách riêng là giáo phận. Độc thân khiết tịnh linh mục là điều rất quý giá, luôn được tôn trọng, là một phần của đặc sủng và tạo sự hữu hiệu trong việc tông đồ của người linh mục.
Nhiều người nhận xét rằng cám dỗ về tình dục thường mạnh hơn như người ta nghĩ. Đó là một cám dỗ tinh vi, mọi nơi mọi lúc, không chừa ai, dù già hay trẻ. Theo Đức Giám Mục (nay là Hồng Y) Thimothy M. Dolan, để sống độc thân khiết tịnh, người linh mục cần phải hết sức tránh những điều sau đây:
- Lạm dụng rượu bia;
- Thường coi sách báo, phim ảnh, truyền hình, internet  khêu gợi;
- Những lời nói dâm dật, chuyện tục;
- Tự cho phép hay tìm cách đưa đẩy để mình ở với người mà mình bị hấp dẫn, đến những nơi nhiều cám dỗ;
- Áp dụng tiêu chuẩn thế gian cho bản thân, chẳng hạn như “sống thử”. Đó là một sự liều lĩnh nguy hiểm.
Và cũng chính ngài đề nghị những điều tích cực cần thực hiện là:
- Cầu nguyện, hãy chân thành thú nhận những yếu đuối, sa ngã của mình.
- Can đảm xưng tội ngay, đừng lãng tránh và trì hoãn; Thánh Philip Neri nói «khiêm tốn là sự bảo vệ tốt nhất cho sự khiết tịnh».
- Hãy vui thích sự cô tịnh, vui khi cầu nguyện, đọc sách, viết lách, nghe nhạc, tập thể dục hoặc lao động;
- Tạo nếp sống quân bình, có kỷ luật;
- Cần có người bạn linh mục tốt, thẳng thắn, để tin tưởng, chia sẻ niềm vui, sự chán nản, và xả cơn giận;
- Nên có bạn hữu tốt là giáo dân trong bậc sống gia đình.

KẾT LUẬN
Kính thưa quý cha,
Trên đây chỉ là đôi điều chúng ta cần lưu ý. Cuộc sống linh mục còn có biết bao điều phải nói, phải bàn và cố gắng thật nhiều không ngưng nghỉ. Tuy nhiên chúng ta đừng quá lo lắng hay than thân trách phận, cũng đừng quá mãi mê tìm tiếng khen, tìm thành công, mong được công nhận điều nầy điều kia, hay ước ao có được bài sai vừa ý… Tất cả những điều đó có thể làm mất những niềm vui trong đời linh mục. Niềm vui của đời linh mục phải đến từ tình yêu thánh thiện, tinh thần trách nhiệm cao, đời sống giản dị, nhất là sự cầu nguyện và quảng đại phục vụ. Hơn nữa, chúng ta cần tin tưởng vào lời Chúa nói với ta rằng «ơn Ta đủ cho ngươi vì sức mạnh của Ta biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối của ngươi» (2 Cr 12,9).
Tóm lại, chúng ta cần ý thức và làm tăng trưởng đức tin, cậy, mến, khiêm tốn, hăng say, sám hối, trung tín, khiết tịnh và niềm vui vì đó là những đức tính cốt lõi và  quan trọng trong đời sống linh mục.
Kính chúc quý cha sức khỏe, nhiều ơn Chúa và niềm vui trong đời linh mục.

Tòa Giám Mục Qui Nhơn, ngày 1 tháng 3 năm 2012
Thứ Năm đầu tháng Thánh Giuse,



X Phêrô Nguyễn Soạn
Giám Mục giáo phận Qui Nhơn

Thứ Bảy, 10 tháng 3, 2012

TÒA GIÁM MỤC QUI NHƠN
116 Trần Hưng Đạo, Tp. Qui Nhơn, tỉnh Bình Định, Việt Nam
Tel: 056-3824360; Fax: 056-3828955
Email: vptgmqn@yahoo.com



VĂN THƯ HƯỚNG DẪN
CHƯƠNG TRÌNH SÁM HỐI VÀ THANH TẨY TRONG NĂM 2012
TẠI GIÁO PHẬN QUI NHƠN

Kính gửi: Quý linh mục, tu sĩ, chủng sinh
và anh chị em tín hữu trong Giáo phận Qui Nhơn.

Anh chị em thân mến,
Trong bức thư đầu Mùa Chay 2012 vừa qua, chúng tôi đã thông báo cho anh chị em về chương trình sáu năm chuẩn bị mừng Năm Thánh 2018, kỷ niệm 400 năm Tin Mừng lần đầu tiên được rao giảng tại Giáo phận Qui Nhơn. Mỗi năm công cuộc chuẩn bị sẽ được khai triển theo một chủ đề cho tất cả mọi thành phần Dân Chúa trong Giáo phận, vừa xây dựng đời sống đạo đức của cá nhân và cộng đoàn, vừa đẩy mạnh công cuộc truyền giáo trên toàn Giáo phận theo gương các bậc tiền nhân.

Kinh cầu nguyện

KINH CẦU NGUYỆN CHO GIÁO PHẬN
CHUẨN BỊ MỪNG KỶ NIỆM 400 NĂM
ĐÓN NHẬN TIN MỪNG
*** U ***
Lạy Chúa là Cha nhân ái/và là nguồn mạch mọi sự lành,/ chúng con chúc tụng và cảm tạ Chúa/ vì gần bốn trăm năm qua/ Chúa luôn làm muôn điều kỳ diệu cho Giáo phận Qui Nhơn chúng con./ Chúa đã gửi đến các nhà truyền giáo nhiệt thành thánh thiện/ và nhiều người kế tục không ngừng,/ dấn thân gieo hạt giống Tin Mừng trên mảnh đất thân yêu nầy./ Xin cho chúng con biết giữ gìn/ và làm sinh hoa kết quả hạt giống đức tin/ mà chúng con đã lãnh nhận.
Xin Chúa cho chúng con trung thành bước theo Con Chúa/ là Đức Kitô, vị Mục tử nhân lành,/ biết sống yêu thương và hiệp nhất với nhau,/ trong gia đình, trong cộng đoàn,/ trong giáo xứ và trong Giáo phận,/ hầu cho mọi người nhận biết Chúa là Cha toàn năng/ và Con Chúa là Đấng cứu độ trần gian.
Xin Chúa ban cho chúng con được đầy ơn Chúa Thánh Thần và lòng nhiệt thành truyền giáo,/ biết theo gương các bậc tiền nhân,/ can trường hy sinh và sống bác ái,/ biết góp công góp sức xây dựng Giáo phận,/ tái thiết các giáo xứ mà các ngài đã dày công gầy dựng/ và hăng say làm chứng cho Chúa mọi nơi mọi lúc.
Lạy Chúa Chí Thánh,/ chúng con xin dâng cho Chúa toàn thể Giáo phận Qui Nhơn/ và mọi việc trong thời gian chuẩn bị nầy./ Nhờ lời cầu bàu của hai thánh Stêphanô và Anrê Kim Thông/ cùng Á thánh Anrê Phú Yên,/ xin Chúa đoái thương nhậm lời chúng con cầu nguyện/ và chúc lành cho chúng con. Amen.

IMPRIMATUR
Qui Nhon die 22.02.2012


 Petrus Nguyễn Soạn
Episcopus Quinhonensis